1. JAN BRZECHWA
Jan Brzechwa (1898-1966) là nhà thơ và luật sư người Ba Lan gốc Do Thái, là tác giả nổi tiếng tại Ba Lan với các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi. Ông đã được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 1964).

Nhà thơ Jan Brzechwa (1898-1966)

Rzepa i miód
Chwaliła się raz rzepa przed całym
ogrodem,
Że jest bardzo smaczna z miodem.
Na to miód się odezwie i tak jej przygani:
“A ja jestem smaczny i bez pani!”

Củ cải và mật
Củ cải khoe khắp cả vườn
Rằng nó rất ngon cùng mật.
Mật trách với lời chân thật:
“Em ngọt không cần chị nha!”

2. IGNACY KRASICKI
Ignacy Krasicki (1735-1801) là nhà thơ đại diện nổi tiếng của thời kỳ Khai sáng Ba Lan, được gọi là Hoàng tử của các nhà thơ Ba Lan. Các tác phẩm quan trọng của ông đã được dịch ra tiếng La-tinh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Italia, tiếng Nga, tiếng Czech, tiếng Slovakia, tiếng Hungari.

Nhà thơ Ignacy Krasicki (1735-1801)

Malarze
Dwaj portretów malarze słynęli przed laty:
Piotr dobry, a ubogi, Jan zły, a bogaty.
Piotr malował wybornie, a głód go uciskał,
Jan mało i źle robił, więcej jednak zyskał.
Dlaczegóż los tak różny mieli ci malarze?
Piotr malował podobne, Jan piękniejsze twarze.

Các họa sĩ
Hai họa sĩ vẽ chân dung đã nổi tiếng từ lâu:
Piotr tốt và nghèo, Jan xấu và giàu.
Piotr đã vẽ tuyệt vời, nhưng cơn đói đã hành hạ ông,
Jan đã làm ít và tồi, nhưng thu nhập nhiều hơn.
Tại sao những họa sĩ này lại có số phận khác nhau như vậy?
Bởi vì Piotr vẽ giống như thật
còn Jan vẽ những khuôn mặt đẹp hơn ngoài đời.

3. JULIAN TUWIM
Julian Tuwim (1894-1953) người Ba Lan gốc Do Thái, là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học Ba Lan và được ngưỡng mộ vì những đóng góp cho văn học thiếu nhi. Julian Tuwim đã được trao Giải thưởng Nhà nước hạng Nhất (1952), Giải thưởng Viện Văn học Ba Lan (1935), danh hiệu Tiến sĩ danh dự Đại học Tổng hợp Lodz (1949), được Quốc hội Cộng hòa Ba Lan khóa VII ra nghị quyết vào ngày 07/12/2012 công nhận năm 2013 là năm Julian Tuwim.

Nhà thơ Julian Tuwim (1894-1953)

Okulary
Biega, krzyczy pan Hilary:
“Gdzie są moje okulary?”
Szuka w spodniach i w surducie,
W prawym bucie, w lewym bucie.

Wszystko w szafach poprzewracał,
Maca szlafrok, palto maca.
“Skandal! – krzyczy – nie do wiary!
Ktoś mi ukradł okulary!”
Pod kanapą, na kanapie,
Wszędzie szuka, parska, sapie!

Szuka w piecu i w kominie,
W mysiej dziurze i w pianinie.

Już podłogę chce odrywać,
Już policję zaczął wzywać.

Nagle zerknął do lusterka…
Nie chce wierzyć… Znowu zerka.

Znalazł! Są! Okazało się,
Że je ma na własnym nosie.

Kính đeo mắt

Vừa chạy, ông Hilary vừa hét:
“Kính của tôi đâu rồi?”
Ông tìm trong quần dài và áo choàng,
Trong chiếc giày bên phải và bên trái.
Ông đảo lộn mọi thứ trong tủ
Sờ choàng tắm, sờ áo bành tô
“Vụ bê bối! – ông la – không thể tin được!
Ai đã lấy trộm kính của tôi!”
Dưới đi văng, trên đi văng
Ông tìm mọi nơi, khịt mũi, thở hổn hển!
Ông tìm trong bếp và trong ống khói
Trong lỗ chuột [đào] và trong đàn piano.
Đã muốn bóc sàn nhà
Đã bắt đầu gọi cảnh sát.
Đột nhiên ông nhìn vào gương
Không muốn tin… Nhìn lại.
Tôi tìm được rồi! Kính đây rồi.
Ông có cặp kính trên chính mũi mình.

Hoàng Xuân Thường
(Chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ba Lan)