Năm ngoái, nhằm dịp kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2022), một đồng nghiệp ở tỉnh Hòa Bình gọi tôi lên cùng viết bài “kêu cứu” cho một trường hợp như sau: bà S và anh T ở huyện Lạc Sơn (tỉnh Hòa Bình) kết hôn năm 1976. Năm 1978, anh T nhập ngũ khi vợ chồng chưa có con. Năm 1982, anh hi sinh ở chiến trường K. Chị S tiếp tục nuôi dưỡng bố mẹ chồng. Đến năm 1988, mẹ chồng mất, chị S xin phép về quê (cùng huyện) và tái giá với một người đàn ông bị tật bẩm sinh. Năm 2018, bà S làm đơn xin hưởng chế độ “vợ liệt sĩ tái giá” theo chế độ hiện hành, nhưng đến nay vẫn chưa được hưởng vì hồ sơ thiếu “biên bản đồng ý của gia tộc”. Bà S hiện tại phải đi làm thuê chăm sóc chồng bệnh tật, các con thất học, thất nghiệp,…

Dư luận địa phương rất thương cảm hoàn cảnh bà S và rất mong ngành chức năng các cấp căn cứ thực tế đối tượng và đặc điểm địa phương để giải quyết chính sách cho bà. Nhiều cựu chiến binh đã lên tiếng ủng hộ và trực tiếp gặp gỡ các cơ quan thẩm quyền để “bênh vực” bà S. Trong đó có đồng chí cựu Bí thư Đảng ủy xã và đồng chí cựu Bí thư Huyện ủy đều là người cùng xã và là bạn thân của liệt sĩ T. Tuy nhiên, đến nay sự việc vẫn bế tắc(!)

Nghị định 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định “Vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc lấy vợ khác, thì được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng bằng một lần mức chuẩn”. Đây là một nét mới so với các qui định về đối tượng thụ hưởng chính sách trước đây. Việc ngành chức năng yêu cầu thêm thủ tục phải có xác nhận của gia tộc là đối tượng có “nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành, hoặc chăm sóc bố mẹ liệt sĩ khi còn sống” là nhằm thực hiện chính sách của Nhà nước chặt chẽ hơn, chính xác hơn. Tuy nhiên, đôi khi thủ tục này cũng gây thêm phiền toái do nhiều nguyên nhân, cản trở việc thực hiện một chính sách hết sức nhân văn, mà trường hợp của bà S nêu trên chỉ là một ví dụ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm công tác giúp đỡ vật chất, tinh thần và tri ân thương binh, liệt sĩ. Người là Hội trưởng danh dự đầu tiên của Hội Giúp binh sĩ bị nạn, sau đổi tên là Hội Giúp binh sĩ bị thương, tiền thân của ngành Lao động Thương binh – Xã hội ngày nay. Tại cuộc mít tinh ngày 27/7/1947 tại chiến khu Việt Bắc để công bố ra đời ngày Thương binh – Liệt sĩ, Ban tổ chức đã đọc bức thư của Bác Hồ gửi cho thương binh. Người viết: “…Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”. Quan điểm đó được Người nhắc lại trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng: “Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ chuyển lại cho chúng ta…”.

Nghĩa trang liệt sỹ Việt – Lào (Anh Sơn). Ảnh: Hồ Đình Chiến

Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác Thương binh – Liệt sĩ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn quan tâm và dành những tình cảm, trách nhiệm để chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công bằng những chính sách cụ thể, thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Theo thống kê của ngành chức năng, kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có hơn 1.400 văn bản về ưu đãi các đối tượng chính sách. Gần đây nhất là Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Chỉ thị số 368-CT/QUTW ngày 12/6/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về việc Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội giai đoạn 2016 – 2020; đặc biệt là Pháp lệnh số 02/2020/PL-UBTVQH14 ngày 09/12/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về Ưu đãi người có công. Hiện nay, cả nước đang có hơn hai vạn thương binh nặng, sáu vạn người là bố mẹ liệt sĩ già yếu cùng 100% Bà mẹ Việt Nam Anh hùng được Nhà nước chu cấp và các cơ quan, đoàn thể phụng dưỡng suốt đời. Hàng triệu đối tượng chính sách khác như: cán bộ lão thành cách mạng, vợ con liệt sĩ, thương binh, cựu thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến, nạn nhân chất độc da cam/dioxin,… được trợ cấp khó khăn, ưu tiên về nhà ở, học hành, việc làm, bảo hiểm y tế,… Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với các chính sách đãi ngộ của Nhà nước, hoạt động đền ơn đáp nghĩa được xã hội hóa thành những phong trào sôi nổi, rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và đạt được những kết quả to lớn.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và đạt được những kết quả đáng kể, nhưng chắc chắn từ người dân bình thường đến cán bộ các cấp đều không ai có thể hài lòng, thỏa mãn, bởi sự tri ân đối với những người có công là không bao giờ đủ. Vì vậy, cùng với việc nghiêm túc và khẩn trương khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong thực thi các chính sách hiện hành, Nhà nước và toàn dân cũng rất cần đổi mới hình thức và nội dung các hoạt động đền ơn đáp nghĩa nhằm mang lại hiệu quả thiết thực và hợp lý hơn nữa. Giải quyết tồn đọng chiến tranh là công việc lâu dài và phức tạp; phải không ngừng đổi mới, năng động, linh hoạt, tránh rập khuôn cứng nhắc. Thực tế đã có không ít trường hợp phải linh hoạt, “đặc cách” trên cơ sở “thấu tình đạt lý” để bảo đảm công bằng cho người có công. Đó cũng là cơ sở thực tiễn để hệ thống chính sách ưu đãi người có công của Đảng và Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn, nhân văn hơn…

Năm tháng sẽ dần trôi qua, những người có công với đất nước, các đối tượng chính sách xã hội,… sẽ ngày càng thưa vắng. Đất nước đang ngày càng phát triển tiến tới mạnh giàu. Hoạt động tôn vinh, đền ơn đáp nghĩa ngày càng được quan tâm và tiến hành thường xuyên, thiết thực, hiệu quả, với nhiều hình thức sôi nổi và phong phú không chỉ riêng một ngày Thương binh – Liệt sĩ, không chỉ riêng một tháng Bảy là “Tháng tri ân”. Đồng thời, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, quan tâm chăm lo gia đình cán bộ, chiến sĩ các lực lượng chức năng đang công tác ở những nơi khó khăn, gian khổ cũng là hình thức tri ân những người có công với dân, với nước; thể hiện đạo lý truyền thống của dân tộc và chính sách nhân văn, ưu việt của Đảng và Nhà nước ta.

Thời gian gần đây, các ngành, các tổ chức xã hội và các địa phương khắp cả nước đã có rất nhiều chương trình và phong trào động viên, tiếp sức cho cán bộ, chiến sĩ, các lực lượng chức năng đang làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Những chương trình và phong trào ấy được sự đồng tình, hưởng ứng, tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân; huy động được những nguồn lực to lớn và ý nghĩa để động viên và hỗ trợ cho các lực lượng đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Tổ quốc nơi tiền tiêu sóng gió. Đó cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ. Đó cũng là những giá trị mới của “văn hóa tri ân” trong kho tàng văn hóa Việt Nam.

Mai Nam Thắng