Lâu nay nhiều người vẫn nghĩ người già như là một gánh nặng kinh tế của gia đình. Các thành viên trưởng thành trong gia đình thường phải lao động nhiều hơn để chăm sóc cho cha mẹ. Nhưng thực tiễn cho thấy người già cũng có nhiều lợi thế tự tạo ra kinh tế. Họ có kinh nghiệm, có tri thức về văn hóa truyền thống, và có sự kiên trì, nhẫn nại, khéo léo… Vậy nên, nếu có chính sách phù hợp để phát huy lợi thế kinh tế của người già thì sẽ đạt được nhiều mục tiêu về kinh tế, văn hóa và xã hội.

Từ thực tiễn sinh động

Thực tiễn cho thấy, ở vùng dân tộc thiểu số Nghệ An, có nhiều người già đang tự tạo ra việc làm và thu nhập từ những hoạt động kinh tế dựa vào các nguồn vốn văn hóa của mình. Họ chủ yếu dựa vào các nghề thủ công truyền thống để phát triển kinh tế.

Tại bản Hợp Thành (xã Xá Lượng, huyện Tương Dương), là địa bàn sinh sống của người Mông với sự phát triển kinh tế thị trường khá hạn chế. Người dân trong bản chủ yếu là người già và trẻ con đang đi học. Phần lớn thanh niên trong bản đều đi làm ăn xa. Nhưng trong bối cảnh đó, vẫn có một cụ già là Lỳ Xia Chớ, ở tuổi 74, sống ngay tại bản mà có thể kiếm được hàng chục triệu một năm bằng nghề rèn. Từ kỹ năng rèn truyền thống được cha và bác ruột truyền dạy cho, ông Chớ đã duy trì lò rèn của mình trong nhiều chục năm qua. Và hiện nay, ông không chỉ rèn để phục vụ nhu cầu trong bản, còn rèn dao bán ra ngoài thị trường. Kỹ thuật rèn của người Mông vốn nổi tiếng nên sản phẩm của ông Chớ rèn ra cũng khá đắt khách. Và mỗi năm ông kiếm được từ 50-60 triệu, gần bằng lương của một công nhân làm ở khu công nghiệp. Ông không phải rời xa quê và cũng tạo ra thu nhập không chỉ nuôi sống hai ông bà mà còn có để giúp con cháu.

Ông Lỳ Xia Chớ vẫn miệt mài với công việc bảo tồn và phát triển nghề rèn truyền thống của người Mông ở bản Hợp Thành

Cách đó không xa, tại bản Minh Tiến (xã Lượng Minh, huyện Tương Dương) của người Khơ Mú cũng có những người tương tự. Trong bản cũng có những người lớn tuổi lựa chọn tìm kiếm sinh kế từ văn hóa truyền thống. Đó là ông Moong Văn Sơn vận dụng tri thức về y dược học truyền thống để tạo ra các loại thuôc và bán cho những người có nhu cầu. Từ các bài thuốc được người cha là thầy lang truyền lại, ông Sơn đã chịu khó lên rừng tìm các loại thuốc về chặt ra phơi khô và tạo ra các loại thuốc như chưa đau dạ dày, đau đại tràng, chưa bệnh tiểu đường, chữa cao huyết áp…. Ban đầu chữa cho một số người, sau đem bán. Người này chữa được thì nhắn bảo người kia. Cứ vậy mà tạo ra mạng lưới xã hội và cũng mang lại cho ông Sơn một khoản thu nhập khá lớn để trang trải trong gia đình. Cách nhà người này mấy bước chân có một già làng khác là ông Moong Văn Tuyền cũng chọn sinh kế bằng việc đan lát. Trước đây, hầu hết những người đàn ông Khơ Mú đều biết đan lát. Nhưng nay cả bản chỉ còn 3 người tiếp tục đan lát. Sản phẩm chủ yếu là mâm tre, ghế, ép xôi. Theo phong tục người Khơ Mú, người sống sử dụng thì đồ nhựa, đồ sắt mua từ đâu về cũng được, nhưng khi làm lễ cúng tổ tiên, cúng cha mẹ thì phải dùng mâm, dùng ép bằng tre do người Khơ Mú đan. Nên nhà nào cũng phải có một bộ đồ đan truyền thống trong nhà để sử dụng khi thực hành các nghi lễ cúng tổ tiên, cúng cha mẹ hay các nghi lễ khác. Và không chỉ trong vùng mà khi đan được nhiều thì ông còn mang ra chợ bán khá đắt hàng. Công việc này cũng là nguồn sống chính của ông Tuyền trong lúc phải trông cháu vì con cái đều đi làm ăn xa.

Ngoài ra còn nhiều trường hợp mà chúng tôi từng được biết đến như những người phụ nữ Thái về làm dâu người Ơ Đu ở bản Văng Môn (xã Nga My, huyện Tương Dương) vận dụng kỹ năng dệt may hay kinh nghiệm làm rượu cần vốn được truyền thụ từ cha mẹ để tạo ra các sản phẩm hàng hóa bán ra thị trường nhằm tăng thu nhập cho gia đình. Đó là trường hợp bà Lo Thị Nga làm nghề dệt may thổ cẩm và sản xuất trang phục truyền thống; bà Vi Thị Hòe làm rượu cần để bán…. Một số người già ở bản Nưa (xã Yên Khê, huyện Con Cuông) hàng ngày cũng dệt may thổ cẩm để bán cho các câu lạc bộ dân ca Thái và khách du lịch. Hay những người lớn tuổi ở xóm Kẻ Min (xã Giai Xuân, Tân Kỳ) hàng ngày vẫn tập hợp nhau lãi để đan võng gai truyền thống của người Thổ để cung cấp cho thị trường và tìm kiếm thêm thu nhập… Nói vậy để thấy, việc vận dụng các nguồn vốn văn hóa vào phát triển kinh tế thị trường ở vùng dân tộc thiểu số vùng miền núi Nghệ An diễn ra khá đa dạng. Dù hiệu quả ở các mức độ khác nhau, nhưng các hình thức phát triển đó cũng đưa lại những ảnh hưởng nhất định. Nó chứng tỏ nếu biết vận dụng một cách hợp lý thì các giá trị văn hóa truyền thống cũng trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế thị trường. Và sự phát triển của kinh tế thị trường cũng mở ra cơ hội để người dân có thể vận dụng các nguồn vốn văn hóa vào phát triển kinh tế.

Ông Moong Văn Tuyền với sản phẩm đan lát truyền thống của người Khơ Mú ở bản Minh Tiến

Lợi thế của người già

Những ví dụ trên cho thấy khả năng người cao tuổi ở các làng bản vẫn có thể tham gia hoạt động kinh tế có hiệu quả và mang lại thu nhập khá cao nếu biết vận dụng hợp lý những lợi thế của mình. Vậy, lợi thế của người già là những gì?

Trước hết và quan trọng nhất, người già sở hữu một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế hiện tại và trong tương lai. Đó là vốn văn hóa truyền thống. Những người già ở các làng bản hiện nay là lực lượng chính không chỉ nắm giữ mà còn thực hành các tri thức văn hóa truyền thống của các cộng đồng. Họ hiểu biết nhiều về các tri thức văn hóa truyền thống từ tri thức dân gian, phong tục tập quán, nghệ thuật biểu diễn, trang phục, ẩm thực, nhất là các nghề thủ công truyền thống. Trong một thời gian dài, những tri thức văn hóa này chưa thể biến thành nguồn lực để phát triển kinh tế, nên những người nắm giữ nó cũng gặp khó khăn trong tiếp cận sự phát triển. Nhưng càng ngày, kinh tế thị trường càng phát triển, nhất là các lĩnh vực dịch vụ, du lịch phát triển lên vùng cao thì vốn văn hóa trở thành nguồn lực quan trọng. Và thực tế, một số người già ở các làng bản đã nắm bắt thời cơ, vận dụng vốn văn hóa của mình vào phát triển kinh tế một cách có hiệu quả, mang lại cho họ thu nhập khá cao so với điều kiện cụ thể của họ. Nguồn thu nhập đó có thể chưa làm cho họ giàu có nhưng cũng giúp họ tự chủ kinh tế, không phải sống dựa vào con cái, thậm chí còn giúp đỡ thêm cho con cái. Các lĩnh vực người già tham gia nhiều nhất là các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt may, làm du lịch cộng đồng, bán các loại thuốc từ các bài thuốc cổ truyền,….

Bên cạnh có lợi thế về nguồn lực văn hóa truyền thống thì người già còn có những lợi thể là lớp trẻ ít có được. Đó là sự kiên trì, nhẫn nại, khéo léo, không vội vàng. Đây là những yếu tố cần thiết trong việc phát triển thủ công nghiệp hay một số lĩnh vực khác liên quan đến văn hóa truyền thống. Người già có đủ trải nghiệm cuộc đời để không phải đổ xô đi tìm kiếm những công việc kiếm được nhiều tiền nhưng cũng đầy rủi ro. Họ không cần thu nhập cao mà cần sự ổn định, đặc biệt là không phải xa quê, không phải sử dụng quá nhiều sức lao động cơ bắp. Vậy nên việc lựa chọn các hình thức để phát triển kinh tế ngay tại địa phương và dựa vào lợi thế của mình là con đường đúng đắn và phù hợp với người già ở các làng bản hiện nay. Nó vừa giúp người dân có thu nhập, vừa góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống vào phát triển kinh tế.

Bà Lo Thị Nga ở bản Văng Môn với nghề dệt thổ cẩm truyền thống đã mang lại một nguồn thu nhập quan trọng cho gia đình

Cần những chính sách phù hợp

Những người già ở các làng bản vận dụng các nguồn vốn văn hóa của mình vào phát triển kinh tế, mang lại thu nhập mà không phải xa quê gợi mở cho chúng ta thêm nhiều đường hướng để hoạch định chính sách phát triển kinh tế. Thứ nhất, những người cao tuổi chứng minh được rằng họ vẫn có đủ năng lực để thích ứng với sự thay đổi trong cuộc sống hiện đại, đủ bản lĩnh và sự nhanh nhạy để tham gia vào các hoạt động kinh tế một cách phù hợp và tạo lập cuộc sống độc lập chứ không nhất quyết phải dựa vào con cháu. Thứ hai, những người già đã gợi mở cho chúng ta thấy nếu có chính sách phù hợp để vận dụng vốn văn hóa vào phát triển kinh tế thì cũng thu được nhiều lợi ích. Lâu nay, người ta vẫn nghĩ việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của các cộng đồng làm tốn kém nhiều tiền của. Nhưng nếu biết khai thác hợp lý thì vốn văn hóa truyền thống cũng là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc phát triển dựa vào khai thác tự nhiên đang ngày càng gặp khó khăn khi các nguồn lực tự nhiên ngày một cạn kiệt mà sự tái tạo lại cần nhiều thời gian. Hơn nữa, khai thác tự nhiên quá mức làm ảnh hưởng nặng nền đến môi trường sống thì con người cũng phải trả giá đắt. Trong khi phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực văn hóa thì dù lợi nhuận thu được dù chậm hơn nhưng lại thu được nhiều lợi ích khác. Vậy nên, cần có những chính sách làm sao để khai thác vốn văn hóa một cách có hiệu quả. Đó là chính sách bảo tồn văn hóa gắn với phát triển kinh tế, chính sách phát huy các nguồn lực tại chỗ ở địa phương, phát huy lợi thế của từng nhóm xã hội nhất định mà người già là một ví dụ.

Vấn đề phát huy lợi thế kinh tế của người già cần phải được quan tâm bởi nó không chỉ có giá trị về mặt kinh tế mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vào phát triển kinh tế. Như ông Vi Văn Sơn, Trưởng ban Dân tộc tỉnh Nghệ An chia sẻ: “Từ nhiều năm nay, chúng tôi luôn trăn trở về việc phát huy các giá trị di sản văn hóa vào phát triển kinh tế. Mong muốn là vậy nhưng chưa tìm được con đường đi cụ thể. Từ những ví dụ sinh động từ những người cao tuổi vận dụng vốn văn hóa của mình vào phát triển kinh tế thị trường không chỉ đóng góp vào thu nhập gia đình mà còn gợi mở cho chúng tôi những bài học kinh nghiệm sâu sắc về phát huy văn hóa truyền thống vào phát triển kinh tế. Nhất là trong bối cảnh dịch bệnh hay thiên tai như quãng thời gian đại dịch Covid-19 gây ra, việc đi làm ăn ở các khu công nghiệp, các đô thị đối diện với nhiều rủi ro khiến nhiều người phải suy nghĩ, thì việc phát triển kinh tế từ những nguồn vốn văn hóa tại chỗ như những người già đã làm được là một gợi ý cần phải xem xét và phát huy. Đó sẽ là những cơ sở thực tiễn để xây dựng chính sách phát triển sao cho phù hợp và hiệu quả”.

Trang Tuệ