Đang ngủ, mới hơn ba giờ sáng đã có người gọi cửa: – Ông Khâm ơi cứu tôi với!

Mơ màng bật dậy như một phản xạ quen thuộc, ông Khâm hẵng giọng: – Bà Hoa à? Có việc chi đó.

Làm trưởng bản hơn mười năm, ông đã quen giọng nói từng người của mấy trăm nhân khẩu trong bản, chỉ cần nghe tiếng là ông có thể nhận ra giọng của ai đó rồi.

Ông bật dậy, tù tì ra mở cổng, chân bước không vững nhưng phản xạ cứ đưa ông đi ra phía cổng. Một tay dụi mắt, một tay hé cửa để bà Hoa lách người vào. Vừa ngồi xuống chiếc bàn bên mái hiên bà Hoa đã khóc òa.

– Ông Khâm ơi, thằng Mũ nó đánh tôi, nó chửi tôi, còn ném áo váy và đuổi tôi ra ngoài đường từ đêm qua. Thằng Mũ nó hỗn lắm, tôi muốn chém cho nó một nhát.

Ông Khâm ngồi xuống bàn, chưa kịp rửa mặt. Cái bàn tiếp dân, cũng là chỗ làm việc của Trưởng bản đặt tại nhà, dưới cái chái được lợp bằng tôn chống nóng. Trước đó vài năm, cái mái che này lợp tôn mỏng, mùa đông thì buốt giá, mùa hè thì chỉ cần nắng lóe lên là nóng như ngồi trong chảo rang.

Trưởng bản Lang Trọng Khâm trong buổi tiếp dân

Ông rót nước mời bà Hoa, vừa giãi bày, tối qua đến nhà ông Hùng dự đám vui, “ùn đỏng”, chuẩn bị cưới vợ cho thằng Lả, tôi quá chén một chút nên hơi mệt vì ai cũng đến chúc. Tưởng chúc nhiều thì khỏe, hóa ra mệt thêm. Uống rượu chỉ nể nhau mới uống thôi chứ khinh thì nỏ uống.

Nói xong ông cười khà khà, cốt để bà Hoa hả được cơn buồn tức.

Nghe câu chuyện, dù đang mếu, bà Hoa cũng phải bật cười, đưa tay che miệng.

Thằng Mũ là con riêng của chồng bà Hoa, hồi lấy ông Chom, ông ấy đã một đời vợ, thằng Mũ còn nhỏ nên bà Hoa thương như con đẻ, bà chăm bẵm nó từ tấm bé, nuôi nấng đến khi nó xây dựng gia đình thì ở chung với ông bà. Thế nhưng, cuộc sống gia đình ngày càng túng bấn, Mũ không có việc làm ổn định, thường khi đi uống rượu về là chửi vợ con, chửi cả bà Hoa và ông Chom. Bà Hoa nhắc nhở thì nó ném áo váy của bà ra đường và đuổi đi, nó bảo bà không phải là người đẻ ra nó, nhà của bà ở dưới bản Kẻ Ninh chứ không phải bản Mường Pòn, tại bà đến ở với bố nó.

Đúng vậy, cái thời bà Hoa, nhiều người bản lấy nhau hầu như không ai đăng ký kết hôn như lớp trẻ bây giờ. Thấy thích nhau, hợp nhau, thì đón nhau về làm đám cưới. Về mặt đạo lý, thằng Mũ đuổi bà Hoa ra khỏi nhà thì không thể chấp nhận được. Ông Khâm phân tích. Mai tôi sẽ sang gặp nó để quát cho nó một trận, bà cứ về đi, yên tâm về đi, tôi sẽ gặp nó.

Bà Hoa vừa ra khỏi cổng, ông Khâm ngồi phệt xuống bên nhà tắm, móc họng cho rượu lúc tối ra. Mặt ông nóng phừng phừng, đầu óc lảo đảo, chân lặc lè bước. Cái thân hình cao lớn thời thanh niên trai tráng trở nên nặng nề khi bệnh gút đã đến giai đoạn nguy cấp. Có đợt, bệnh gút làm ông nằm lì một chỗ gần tháng trời, ông đành phải uống thuốc giảm đau. Nhưng theo bác sĩ khuyên bảo, uống nhiều thuốc giảm đau có thể hại đến dạ dày, nên ông cầm chừng, mỗi đợt thấy chân có thể lết đi được thì ông dừng thuốc. Chắc vì không có bài thuốc nào chữa dứt điểm nên bệnh gút hành ông theo đợt, triền miên như thế, nhưng ông vẫn cứ lặc lè đi khắp bản mỗi khi có sự vụ. Hồi trẻ, ông được khen là chàng Khủn Chưởng đẹp nhất bản, với làn da trắng, cao ráo, khuôn ngực vạm vỡ. Chàng từng gánh hai sọt lúa nặng một tạ từ ruộng Sảm Hả về nhập kho trên đầu bản mà chân đi phăm phăm không biết mệt. Nhưng từ khi sang tuổi xế chiều, lại thêm bệnh nên sức khỏe ông giảm rõ rệt. Là bộ đội phục viên, ông được dân bản tin yêu, tôn vinh bầu làm trưởng bản ba nhiệm kỳ liên tiếp cho đến nay.

Ngày ông Chom ở chiến trường miền Nam về thì bà Chom đẻ thằng Mũ, thương ông Chom là bộ đội phục viên lại là thương binh, bà Chom hầu như cáng đáng hết mọi việc trong nhà, kể cả việc vào rừng tìm gỗ về sửa nhà. Một hôm bà Chom đi kéo gỗ, trong lúc chặt dây song để hạ cây gỗ mắc trên đó, không ngờ khi dây đứt, cả thân cây gỗ lao thẳng vào người bà. Đến tối mịt không thấy bà Chom về, ông Chom báo với anh em họ hàng nhờ người đốt đuốc đi tìm. Mãi tới hôm sau mới phát hiện thi thể bà Chom.

Ông Chom đau đớn, vò võ, một mình một thân chăm nuôi thằng Mũ đến khi nó gần mười tuổi. Một hôm ông đi khám, phát hiện mình bị nhiễm chất độc da cam/dioxin. Lúc ấy bà Hoa xuất hiện trong đời ông. Bà Hoa là người phụ nữ lỡ thì. Ở bản Mường Pòn, phụ nữ trên hai mươi tám tuổi đều được coi là lỡ thì, bà Hoa ở trong số đó.

Đón bà Hoa về chung nhà, ông Chom bà Hoa không làm giấy đăng kí kết hôn và cũng không làm đám cưới. Ông Chom chỉ làm mâm cơm, mời những người bạn lính phục viên và họ hàng thân thích đến chung vui, trình với ma nhà, tổ tiên việc hai người chung sống làm vợ chồng. Bà Hoa siêng năng việc đồng áng, lại luôn dành tình thương yêu cho thằng Mũ. Có bàn tay người mẹ kế, thằng Mũ ngày càng lớn phổng như thổi, ngực nó vươn phía trước như muốn xé vạt áo. Nhưng đến khi nó hai mươi tuổi, tính nết nó thay đổi hoàn toàn, nó hay bẳn gắt, khùng điên, đặc biệt hay quên. Có lần nó chạy khắp bản gặp ai nó cũng gây sự, hét vang cả bản. Sau này người bản gọi nó là “Mũ điên”.

Bà Hoa lo lắng cho thằng Mũ nên đi nhờ thầy mo bói xem nó bị con ma chi ám. Mo phán phải làm lễ cúng, bà Hoa cũng về sắm đủ đồ lễ cúng cầu sức khỏe cho thằng Mũ nhưng vẫn không khỏi. Rồi có người trong bản hiến kế, chỉ có cách cưới cho nó cô vợ thì nó sẽ yên. Phải thú nhận, thằng Mũ đẹp trai nhất bản, chỉ có điều tính khí trở nên ngày càng thất thường. Khi bà Hoa tìm con dâu thì gái bản bên đã theo nó về. Mũ lấy được vợ, cùng ở trong nhà với ông Chom bà Hoa, thế nhưng như đã nói, mỗi khi lên cơn, nó chửi bới tất cả mọi người, đặc biệt nó đuổi bà Hoa ra khỏi nhà vì bà Hoa không phải mẹ đẻ của nó.

Ông Khâm cho biết, năm ngoái, Hội nạn nhân chất độc da cam huyện đưa thằng Mũ đi khám và có kết luận nó ảnh hưởng di chứng từ bố. Chất độc da cam có thể có di chứng đến thế hệ thứ hai, thứ ba và thằng Mũ đã bị nhiễm. Nó bị phát bệnh khi đã trưởng thành. Càng ngày bệnh thằng Mũ càng nặng hơn. Thế nhưng, ông Chom giấu biệt không cho làng biết vì sợ thằng Mũ khó lấy vợ.

Ông Khâm dắt cái xe máy Dream màu đỏ, cà tàng từ thời bố ông để lại, ra ngõ đi tìm thằng Mũ, ông còn cẩn thận vắt lên yên xe một bì gạo, nói để cho thằng Mũ. Mỗi khi trong bản ai có chuyện gì, là ông tót lên xe máy cho đỡ đau chân, xong việc ông lại cưỡi xe máy về, hàng ngày như thế đi đi lại lại mấy chục tráo. Phụ cấp trưởng bản không đủ cho ông mua xăng, nhiều khi cô con gái lấy chồng ra ở riêng vẫn phải chu cấp tiền xăng cho ông. Ông bảo, thằng Mũ nó lên cơn lần này là lần thứ ba, mọi lần nó không đuổi bà Hoa ra khỏi nhà, nhưng lần này thì căng quá. Bà Hoa là người có công nuôi nó từ tấm bé đến trưởng thành, giờ mà bỏ đi thì thương bà ấy lắm vì giờ bà ấy đã già. Ông cũng nghĩ, thằng Mũ mà bình thường như bao người khác trong bản thì chắc hoàn cảnh bà Hoa không đến nỗi phải khổ như thế. Thảm họa của loại chất độc này đang âm thầm xói mòn hạnh phúc gia đình bà Hoa và biết bao nhiêu gia đình khác trên đất nước này.

Trở về nhà, ông dự định kiếm vài giờ thư giãn, vừa đặt lưng, nhắm nghiền cho đỡ mỏi mắt, đã có người chạy đến gọi, ông Công ở bản Hủa Na vừa mất, xin mời trưởng bản vào làm lễ. Ông lại bật dậy, xỏ vội chân vào ống quần, chỉ kịp khoác lên mình cái áo trùm cùng cái vòng len vào cổ. Trong bản, hễ ai có chuyện gì, từ tang gia đến cưới hỏi đều đến tay ông lo. Ông thường trùm cái vòng len để giữ ấm cổ, vì không có nó, gió lạnh làm ông ho có khi kéo dài cả tháng trời. Cái bệnh ho này, ông đã đi khám nhiều bệnh viện, kể cả Bệnh viện Lao phổi Nghệ An cũng chỉ kết luận viêm họng dị ứng cấp. Thế mà nó đã đeo đẳng vào đời ông suốt từ hồi ở chiến trường về, đến nay vẫn không chịu tha.

Cánh đồng bản Mường Pòn (bản Kẻ Bọn)

Ông cưỡi xe vòng lên bản, đi qua cánh đồng vựa lúa của bản Pòn rồi rẽ sang bản Hủa Na. Đường trong bản chằng chịt, có đoạn vắt ngược lên đồi, có đoạn chạy ra bờ suối, lẩn khuất dưới những tán cây yên tĩnh đã được rải bê tông nên xe ông cứ bon bon. Mường Pòn là bản đã được huyện Quỳ Châu công nhận là bản Nông thôn mới từ năm 2017, sau đó sáp nhập với bản Hủa Na lấy tên là Kẻ Bọn. Từ khi sáp nhập, Mường Pòn rộng thêm, dân số cũng gấp đôi và việc của trưởng bản cũng nhân lên không tính nổi.

Ông Khâm đến cổng nhà ông Công gọi mọi người ra phân việc, ai nấy răm rắp làm theo lời trưởng bản. Người nhà ông Công lúc đó vác ra cái ghế để ông ngồi. Ai cũng biết ông bị bệnh gút nặng nên cấm ông không được đến gần thi thể người chết, ông phải ngồi ngoài cổng. Thỉnh thoảng ông đứng tựa vào bờ rào, nhìn vào ngôi nhà quen thuộc, nơi có người đồng đội đang nằm đó, nước mắt ông chảy ròng mặc dù ông không khóc. Ông nhớ thời hai đứa chỉ mới mười bảy, đã khai man thêm tuổi rồi bỏ cát vào túi quần, xuống Huyện đội xung phong nhập ngũ và biền biệt, hai người không hẹn ngày về.

Thế nhưng số phận đã ưu ái cho cả hai được trở về bản sau khi đất nước thống nhất. Ông Công trở về với thương tật, thương binh hạng Ba nhưng luôn năng nổ tháo vát trong mọi phong trào, ông luôn đi đầu trong việc đảm bảo an ninh trật tự của bản. Từ khi có các cựu chiến binh về bản, người dân sống yên ấm hòa thuận, không có người nghiện. Đặc biệt, hàng chục con em bản còn có điều kiện xuất khẩu lao động hoặc tìm việc làm tại các công ty ở miền Nam. Nhiều gia đình nhờ tiền con gửi về đã sửa hoặc làm mới được ngôi nhà. Bà con có điều kiện chung tay cùng chính quyền bản, rồi huyện hỗ trợ, làm được đường bê tông, tạo nên cảnh quan diện mạo nông thôn mới miền núi thật khang trang. Nhiều du khách rất thích thú khi ghé check in ở mấy điểm du lịch cộng đồng khu vực thác Tạt Ngoi, thác Đủa, cầu sông Hiếu, suối Huồi xén…

Thấy ông Khâm ngồi một mình, mấy già bản cũng mang điếu đến ngồi bên cạnh, có người khuyên ông nên về nhà nghỉ ngơi kẻo gặp hơi lạnh, bệnh gút nguy lắm, nhưng ông cứ ngồi đó như vô định.

Bản Mường Pòn

Mường Pòn là bản thuộc xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Người bản không thể giải thích được chữ “Pòn” nghĩa là gì, nhưng ngày xưa ông tôi bảo “Pòn” có nghĩa là thả xuống, mường bản do trời thả xuống với ý nghĩa rất thiêng. Trời dựng bản lập mường cho người Thái đến định cư, sinh sống. Con cháu bao đời cũng không thể giải thích nổi cái tên “Mường Pòn” và người Thái đã thiên di đến mường bản tự bao giờ, chỉ biết là đã nhiều đời nối tiếp với nhiều dòng họ: Vi, Lữ, Lương, Sầm. Riêng họ Vi, sau Cách mạng Tháng Tám, cán bộ người Kinh lên làm lãnh đạo đã đổi tên gọi thành họ Lang rồi cả tên bản Mường Pòn cũng đổi thành bản “Kẻ Bọn”. Hơn nửa thế kỷ, Mường Pòn mang tên là Kẻ Bọn trong các văn bản hành chính, nhưng người bản vẫn gọi nhau, hỏi nhau quê bản nào rồi trả lời là Bản Pòn (Mường Pòn). Do sự nhầm lẫn hoặc thiếu hiểu biết, nên nhiều địa danh vùng đất đã bị gọi lệch một cách tối nghĩa và mất đi nét văn hóa vùng quê. Theo văn bản hành chính thì nhiều địa danh huyện Quỳ Châu và nhiều nơi khác ở miền Tây Nghệ An đã bị mất nghĩa tên gọi địa danh. Cụ thể bản Phiềng Pận thành bản Kẻ Bấn, núi Pù Pai thành Mụ Bài… và Mường Pòn thành “Kẻ Bọn”.

Ông Khâm đi cà nhắc trên đôi chân sưng vù, ghé hội quán bắc loa, ban đầu ông nói bằng một tràng tiếng Thái sau đó dịch lại bằng tiếng Kinh để mọi người trong bản đều hiểu. Tiếng loa rền khắp bản mời gọi toàn dân xuống đồng sau tiếng sấm tháng Ba. Ông bảo lúc tối sấm về phía núi Pù Quai (Núi con trâu), báo hiệu mùa màng năm nay sẽ tốt tươi, bản mường no đủ. Ông giải thích, người Thái quan niệm tiếng sấm đầu năm báo hiệu bản mường chính thức bước vào năm mới.

Đối với cộng đồng bà con dân tộc Thái miền Tây Nghệ An thì tiếng sấm đầu tiên trong năm, sau Tết Nguyên đán, lúc đó mới thực sự bước sang năm mới. Lễ mừng tiếng sấm đầu tiên trong năm rất đơn giản, chỉ là một chai rượu trắng, năm chén rượu, năm miếng trầu têm và người già đại diện cho gia đình khấn lễ. Sau lễ khấn, trẻ nhỏ và các thiếu nữ Thái được mẹ luộc chín trứng gà, đem chà lên mặt, lăn qua lăn lại hai bên má vừa đọc câu đồng dao cầu mong cho da mặt mịn như trứng gà bóc, sức khỏe, xinh đẹp, an lành may mắn, siêng năng trong lao động. Sau đó là vui uống rượu cần, đánh chiêng, nhảy múa, hát đối đến tận khuya.

Trời vừa sập tối, ông Khâm lại nhìn thấy bà Hoa đến nhà, cổng nhà ông không khóa. Bản này từ trước đến nay chưa hề xảy ra vụ mất trộm xe máy hay đồ đạc trong nhà và hầu như mọi nhà đều không bao giờ khóa cổng. Bà Hoa xách trên tay một cái túi thổ cẩm trong đó có một chai rượu và một gói bằng lá chuối. Lần này đến nhà trưởng bản, bà Hoa không còn vẻ mặt nhăn nhó, buồn chán như hồi tảng sáng nữa. “Ông Khâm ơi, tôi có chút quà biếu ông nha, gia đình tôi cảm ơn ông rất nhiều”. Bà Hoa thỏ thẻ như xấu hổ điều gì đó. Ông Khâm đỡ túi quà, nói:

– Bà vẽ chuyện, nhà bà còn thiếu thốn vậy sao lại biếu quà tôi.

Ông Khâm vừa đỡ vừa gạt cái túi sang tay bà Hoa, nhưng bà Hoa khẩn khoản, xin ông nhận cho.

Ông Khâm đặt túi quà lên bàn và ngồi đối diện nghe bà Hoa giãi bày. Chuyện là từ lúc ông Khâm đến nhà tỉ tê phân tích, động viên cả nhà ông Chom bà Hoa, có cả vợ chồng thằng Mũ thì mọi người đã làm lành với nhau, thằng Mũ xin lỗi bà Hoa rằng nó cũng chẳng nhớ mình đuổi bà Hoa lúc nào và như thế nào. Lâu nay nó vẫn gọi bà Hoa là mẹ và bà Hoa luôn thương yêu nó. Mỗi lần trong nhà có chuyện cãi vã, thằng Mũ có hỗn xược đôi chút bà Hoa cũng bỏ qua cho thằng Mũ bằng tình yêu thương đứa con mình chăm bẵm từ bé. Hôm nay, bà Hoa biết rằng những người như Mũ cần phải được đối xử bằng tình thương và trách nhiệm. Theo ông Khâm, những va chạm ngày thường cần được tha thứ, nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề thấu đáo bằng tình nhân ái bao dung, đặc biệt là đối với những người là nạn nhân chất độc da cam thì mọi việc đều được giải quyết một cách êm đẹp.

Ông Khâm tiễn bà Hoa ra cổng, quay vào nhà, trời bắt đầu nhá nhem tối. Ông nhìn về phía cánh đồng trước bản, mây từ đỉnh núi Bù Xén trôi bảng lảng. Ánh điện của mấy ngôi nhà phía bên kia cánh đồng lóe lên thứ ánh sáng mờ ảo khiến ông thấy vui vui lòng. Ông lẳng lặng quay vào nhà, thả lưng xuống phản mà cảm giác như trút hết mọi gánh nặng. Một ngày bận rộn, bề bộn vừa đi qua. Ông bắt đầu một giấc ngủ thật bình yên, thư thái trong cảm giác lâng lâng niềm vui.

Lang Quốc Khánh