Vào facebook Cong Hoa Nguyen – em trai chị Kim Phúc, vợ nhà thơ Lâm Quang Mỹ, thấy ảnh Hòa chụp chung với anh Mỹ, tôi vẫn không muốn nghĩ điều chẳng lành đến với anh. Luật trời nghiệt ngã chẳng ai cưỡng nổi, biết vậy mà sao tôi không đủ can đảm điện hỏi Hòa, đành lục tìm phóng sự “Nhịp cầu nối đôi bờ thi ca” đăng báo Lao động Việt Nam tháng 7/2013, dịp Hội Nhà văn Ba Lan tổ chức trọng thể mừng nhà thơ Lâm Quang Mỹ tròn 70 tuổi. Thấy tôi treo bài cũ lên facebook, Hòa điện báo “anh Mỹ bị đột quỵ mất hồi 05h15, giờ Việt Nam, ngày 25/7 (nhằm ngày 8/6 năm Quý Mão) tại Ba Lan”.

Anh Lâm Quang Mỹ, tên khai sinh là Nguyễn Đình Dũng, sinh năm 1943 (năm Quý Mùi), hậu duệ của Cương Quốc Công Nguyễn Xí. Anh quê làng Cổ Đan, tổng Đặng Xá, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Lâm Quang Mỹ là Tiến sỹ vật lý Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Ba Lan, cử nhân điện tử, nhưng thơ ca lại là nghiệp theo anh trọn đời.
Hơn 30 năm sống ở xứ người, anh trình làng hàng chục tập thơ xuất bản tại Việt Nam, Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Czech, Pháp, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Đức, Canada, Ukraina, Hàn Quốc, Thái Lan. Lâm Quang Mỹ chuyển ngữ sang tiếng Ba Lan “Tuyển tập thơ Việt Nam từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 19” (xuất bản năm 2010); “Thơ Việt Nam hiện đại từ 1932 đến 1941” (xuất bản năm 2015). Công trình “Thơ Việt Nam từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 19” trở thành “sự kiện thơ” của năm 2010 ở Ba Lan.
Chị Kim Phúc kể với tôi: Anh dự định ra mắt công trình vào đầu tháng 10/2010, dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Chừng giữa quý 4/2009 anh nhận tin từ trong nước, rằng, hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài sẽ tiến hành từ ngày 05 đến 10 tháng 01/2010 tại Hà Nội. Thế là anh như con thiêu thân làm ngày làm đêm cho kịp có sách để giới thiệu tại hội nghị quan trọng này. Trong 03 ngày, công trình in xong, anh đến nhà xuất bản nhận sách mang về nhà để chuẩn bị vài hôm sau cả người và sách cùng bay về Hà Nội. Quá mừng vì sách đã in xong, lại vội vàng nên anh bỏ quên áo khoác ấm trong xe, bước ra ngoài trời đang dưới 100C anh bị cảm lạnh và bị viêm phổi cấp, vợ con và bạn bè đưa anh vào bệnh viện cấp cứu. Hiềm nỗi, vé máy bay Warszawa – Hà Nội đã mua rồi, anh mở hết “tài dân vận” nài nỉ bác sĩ rằng, hai ngày tới phải có mặt tại Hà Nội để dự hội nghị rất quan trọng. Động lòng với “bệnh nhân đặc biệt”, bác sĩ đành cấp thuốc men để anh điều trị ngoại trú. Lên máy bay rồi mà anh vẫn còn sốt. Thế mà hôm sau vào hội trường anh tỉnh táo, nhanh nhẹn như một người bình thường. Hỏi thì anh bảo, lâu ngày được gặp anh em bạn bè, cái “viêm với cảm lăng nhăng ấy cũng phải nhanh chân tìm đường mà biến chứ!”. Chị Kim Phúc nói tiếp: “Em à, ngần ấy buổi diễn ngâm thơ (nước bạn gọi là “hát thơ”) anh đều đảm đương ba trong một: chỉ đạo, thiết kế, biểu diễn. Anh hát thơ của mình, thơ của các nhà thơ Việt Nam và Ba Lan. Chị ngoại đạo thơ phú nên những buổi chị thu xếp đi cùng là để lo sức khỏe của anh”.

Nhà thơ Lâm Quang Mỹ tìm kiếm, đãi đằng những tinh túy trong tiếng Ba Lan để thơ Việt đồng điệu với thơ Ba Lan, để hương vị cái đẹp phương Đông hấp dẫn, chinh phục trái tim độc giả châu Âu. Những đóng góp của anh về sáng tác, dịch thuật, diễn ngâm thơ Việt được Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Ba Lan nhiệt thành ghi nhận. Anh giành hai giải thưởng UNESCO về thơ, hai giải nhất cuộc thi Maraton thơ quốc tế 2008 (của Ban Giám khảo và của công chúng), được Nhà nước Ba Lan tặng thưởng Huân chương công trạng. Trong danh sách các nhà thơ, nhà văn xuất sắc nhất của Ba Lan hiện nay có tên anh. Chính quyền vùng Krasne tỉnh Małopolskie – quê hương của thi hào Ba Lan Zygmunt Krasinski đã phong tặng anh danh hiệu “Công dân danh dự” năm 2008.
Ông Marek Wawrzkiewicz – Chủ tịch Hội Nhà văn Ba Lan khái quát: “Là nhà thơ có phong cách riêng, nhạy cảm với cái đẹp, qua thơ Lâm Quang Mỹ trong sáng tác và dịch thuật tìm thấy sự tương đồng trong ngôn ngữ thơ ca hai dân tộc. Thật đáng mừng là thơ của nhà thơ Việt Nam được chào đón trong các gia đình bạn đọc Ba Lan”.
Thơ Lâm Quang Mỹ độc đáo, khác lạ, kiệm lời, giàu triết lý tư duy, cách diễn đạt tinh tế, câu chữ chắt lọc kỹ càng. Lối so sánh ví von giàu chất triết luận trong thơ anh chạm đến trái tim độc giả, hầu hết những bài thơ của anh đều có một vài câu vui hoặc buồn, sâu lắng, nhẹ nhàng, thấm đẫm tình người, tình đời: “…Em muốn em chỉ là màu đất, để muôn hoa từ đó sinh ra”, miễn sao “Giữ cho mình một góc của riêng ta”.

Lâm Quang Mỹ là người sống nội tâm, nhiệt tình, chân thành, tình cảm, giàu nghị lực khám phá. Anh từng trải qua những tháng ngày sống độc thân, cô đơn giữa phố phường Hà Nội, từng trải khó khăn thiếu thốn của một thời “trí thức không nuôi nổi vợ con, trong khi lợn nuôi sống cả vợ con và trí thức”. Anh từng qua những cơn đói cồn cào, những đêm đông lạnh giá, sự trải nghiệm không ai muốn ấy giúp anh thẩm thấu lẽ đời, thẩm thấu những nghiệt ngã tưởng chừng không vượt nổi, nhưng khi vượt được rồi thì nghị lực, khát khao, hy vọng trong anh lại nhân lên.
*
Lâm Quang Mỹ và tôi đồng tộc, đồng làng, tuổi tác cách nhau gần một giáp, chúng tôi có chung những kỷ niệm khó quên. Khó quên là bởi dưới thời đạn bom sống chết chỉ trong gang tấc, bởi kỷ niệm đầu tiên giữa hai chúng tôi xẩy ra cùng ngày, cùng giờ với sự kiện lịch sử diễn ra trên miền Bắc Việt Nam. Đầu chiều ngày 05/8/1964, máy bay Mỹ bất thình lình ào đến ném bom Vinh – Bến Thủy. Bom dội trúng kho xăng dầu Bến Thủy (cách làng tôi chừng 4km đường chim bay), khói lửa ngút một góc trời. Năm ấy, tôi mới 10 tuổi một mình ngồi co ro trong hầm tròn cá nhân, bỗng ai đó nháo nhào đổ ập lên đầu:
– Cho anh trú với. Ra sông mua mấy bó nứa về để ông Liệu (cụ thân sinh ra anh) đan phên. Chuẩn bị vác nứa về thì… bom… bom… bom!
Tôi ép người sát vào vách hầm để dành chỗ cho anh. Ngẩng lên tôi mới nhận ra là anh Dũng, ở cách nhà tôi vài trăm mét. Sau trận bom lịch sử ấy anh Dũng lên đường ra Hà Nội học tiếng để chuẩn bị du học Ba Lan. Khi anh lên đường, làng Cổ Đan quê chúng tôi, thuộc hạ lưu, bên bờ tả Lam vẫn mướt mát cây xanh, tấp nập trên bến dưới thuyền đẹp như tranh thủy mặc. Nhưng rồi 09 tháng sau, ngày 20/5/1965 (nhằm 20/4 âl Ất Tỵ), hàng chục lượt máy bay Mỹ từ biển vào oanh tạc liên tục từ 14h -17h. Hết tốp này đến tốp khác cắt bom, phóng rốc két hủy diệt Quân cảng K34 Hải quân, hủy diệt luôn ngôi làng Cổ Đan, 48 dân lành thiệt mạng, hàng chục người bị thương. Từ ấy, làng Cổ Đan bị đạn bom biến thành vùng đất trắng, đất chết, suốt 08 năm chiến tranh phá hoại miền Bắc (1965-1972), làng tôi không bóng cây, bóng người. Trận bom thứ hai hủy diệt dân cư trên đất Nghệ An đã “khai tử” làng tôi là trận bom giáng xuống thị trấn Dùng, huyện Thanh Chương (19/3/1965). Suốt mấy trăm năm, kể từ đầu thời Trần đến giữa thế kỷ XX, làng Cổ Đan bên bờ sông Lam bị bom hủy diệt, mấy chục hộ dân tứ tán khắp nơi. Dân làng tôi tan đàn xẻ nghé từ đó. Ngày 20/4 âm lịch ấy đã thành ngày giỗ chung của nhiều gia đình dân làng, dù một số gia đình dạt sang các địa phương, các làng khác.
Sau trận bom hủy diệt ấy, nhà anh Dũng dạt vô Kỳ Đùng Hà, cách chỗ cũ bờ Lam chừng 02 cây số. Nhà bố mẹ tôi thì gặp “hạn”, chạy “đến đâu bom theo đấy”, bị mất trắng nhà hai lần nữa vì bom. Sau lần trắng tay “của đi thay người”, đầu năm 1968, từ Kỳ Đùng Ràn, bố mẹ tôi tha đàn con dạt sang Kỳ Đùng Hà dựng tạm một gian nhà tranh tre trú nắng trú mưa, cách nhà anh Dũng tầm 300m. Làng mới Kỳ Đùng Hà tập hợp vài chục gia đình lánh nạn. Nhà ông Liễu được làm bằng gỗ lim kiên cố được xếp vào hàng khá giả. Thời điểm ấy, người anh cả và cô em gái của anh Dũng tên là Dương đều đang ở bộ đội. Một ngày hè năm 1970, trời nắng như trút lửa, nhà ông Liễu người lớn đi vắng, hai thằng cháu nội là Nguyễn Đình Trần (10 tuổi), Nguyễn Đình Đông (8 tuổi) ở nhà, nổi lửa nấu khoai, chẳng may gây hỏa hoạn. Gần trưa, đang lúc gió phơn tây nam ràn rạt, căn nhà gỗ lim phút chốc thành bó đuốc khổng lồ, lửa gặp gió bốc cao 15 – 20m, thiêu trụi ngôi nhà cùng toàn bộ nông sản vừa thu hoạch đã được cất đặt gọn gàng.

Tôi nhập ngũ, đơn vị đóng tại vườn Nhãn đền Voi Phục (bên ngã ba Cầu Giấy) thì nghe tin anh Dũng đã về nước làm việc tại Viện Vật lý. Một sáng Chủ nhật, tiết thu năm 1973, tôi đang chơi bóng bàn tại đơn vị thì sỹ quan trực ban vào gọi:
– Đồng chí Hưởng ra cổng gặp người nhà.
Ai nhỉ? Đoán già đoán non vẫn không biết người nhà là ai. Từ xa tôi thấy người đàn ông đứng bên chiếc xe máy hiệu Pozot 105 màu vàng, lại gần nghe chất giọng Cổ Đan đặc sệt:
– Hưởng ơi, anh Dũng đây.
– Ôi, anh Dũng. Bằng cách nào anh biết em ở đây mà tìm?
– Dài dòng lắm, anh em mình 09 năm rồi mới gặp nhau, ta dạo phố nói chuyện.
Anh kể, tháng trước, nghỉ phép về quê, lên nhà o chú chơi (anh gọi bố mẹ tôi bằng o chú), biết em ở Hà Nội, anh cầm cái hòm thư 30JA… thì em trốn ở mô anh cũng tầm ra, dân kỹ thuật mà. Chiếc Pozot 105 ta đang cưỡi anh mượn của Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu – Viện trưởng Viện Vật lý.
Ngày đó, Viện Vật lý nơi anh làm việc đóng bên đường Bưởi – Chèm, cách đơn vị tôi chừng 4-5 cây số. Anh là cán bộ độc thân duy nhất của Viện, được GS, Viện trưởng “đặc cách” suất nội trú tại cơ quan, thế nên “thường ngày làm việc của Viện, hằng đêm và các ngày Chủ nhật anh làm sư giữ chùa”. Chủ nhật, tôi mượn xe đạp công vụ của đơn vị sang Viện Vật lý “cùng anh làm sư giữ chùa”. Mấy Chủ nhật anh mượn xe máy “cụ Hiệu” chở tôi bát phố, vào các quầy bán sách, báo mượn xem tại chỗ, rất ít khi mua vì viêm màng túi. Có lần, qua cổng Đại sứ quán Ba Lan, anh dựng xe bên này bảo tôi đứng chờ, anh sang cổng sứ quán “mong gặp mấy ông Tây để giao tiếp tiếng Ba Lan, văn ôn võ luyện, lâu ngày không dùng hỏng mất”.
Dạo khắp Hà Nội gần hết bình xăng, về Viện bật bếp dầu nấu mì sợi, mỗi người một bát kèm một quả trứng. Anh có trí nhớ đăc biệt, tôi nghe anh đọc nhiều bài thơ anh thuộc từ tuổi trường làng, trường tỉnh. Trong đó, bài “Chia tay đầu trăng mật” của nhà thơ Minh Huệ làm trong kháng chiến chống Pháp, bị xếp vào hệ “thơ tả thực”, “thơ phản chiến” cấm phổ biến, nó hiếm tới mức trong Di cảo của nhà thơ Minh Huệ do gia đình bảo quản cũng không có bài này. Từ ngày đó, tôi biết anh thuộc rất nhiều thơ ta có, tây có. Cũng từ ngày đó, tôi mường tượng vật lý là nghề câu cơm, thơ ca mới là niềm đam mê cuốn hút anh. Dù vậy, tôi không nghĩ thơ ca sẽ là nghiệp để chừng 20 năm sau bút danh Lâm Quang Mỹ có chỗ đứng vững vàng trên thi đàn Ba Lan, trở thành “lưỡng quốc hội viên” Hội Nhà văn Việt nam – Hội Nhà văn Ba Lan.

Nghỉ hưu, Lâm Quang Mỹ sang sống cùng vợ con, trước đó đã định cư Ba Lan. Từ ấy cho đến khi sức khỏe không cho phép, anh có khoảng 1.500 buổi diễn ngâm thơ tại nhiều địa phương nước sở tại. Ông Darius Tomasz Lebioda, nhà thơ, Giáo sư, Tiến sĩ, nhà phê bình văn học, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ “Temat” nhận xét: “Lâm Quang Mỹ đã có chỗ đứng vững chắc trong văn học Ba Lan. Các buổi biểu diễn của ông luôn thu hút rất đông người xem… trở thành ngày hội thật sự của thơ trữ tình, của nét lạ phương Đông xa xôi.”
Lần cuối ngồi với anh tại quán cafe bên bờ tả Lam, gió chiều lồng lộng, anh hít thở rất sâu, giang rộng hai tay cười bảo: “Hưởng à, anh Dũng gói gió quê hương mang sang trời Tây dùng dần!” Chị Kim Phúc ơi! từ quê nhà xa xôi, em kể mấy mẩu chuyện này kết nén tâm nhang kính viếng hương linh anh Nguyễn Đình Dũng, chị nhé!
Giao Hưởng















