Văn học và hiệu quả của việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật

Ảnh chỉ mang tính chất minh họa. Ảnh: Lý Uyên

Văn học – nghệ thuật của ngôn từ

Văn học là một loại hình nghệ thuật phi vật chất, khác biệt với các hình thức nghệ thuật khác. Trong khi hội họa dùng đường nét, màu sắc; âm nhạc sử dụng âm thanh; sân khấu dựa vào ánh sáng, đạo cụ… thì văn học dùng ngôn ngữ hình tượng làm chất liệu sáng tạo.

Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”. Văn học viết về con người, phản ánh và phục vụ đời sống tinh thần của con người. Dù viết về dòng sông, cánh đồng hay đám mây… thì đằng sau vẫn là cái nhìn nhân sinh sâu xa.

Hình tượng con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ không đơn thuần là một con thú bị giam cầm mà là biểu tượng cho nỗi đau mất nước. Hàn Mặc Tử trong Đây thôn Vĩ Dạ viết như một lời thỉnh cầu tuyệt vọng – giữa án tử đang treo lơ lửng – cái đẹp trở nên mong manh đến xót xa:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hay Huy Cận trong Tràng giang, qua hình ảnh dòng sông, đã diễn tả nỗi cô đơn của một linh hồn nhỏ bé giữa vũ trụ bao la:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu…”

Nỗi buồn ấy là nỗi buồn của cả thời đại – thời của những trí thức đau đáu trước thân phận và cuộc sống. Từ Xuân Diệu: “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” (trích Nguyệt cầm); đến Thạch Lam: “Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác…” (trích Hai đứa trẻ).

Với Nam Cao, văn học là tiếng kêu cứu từ cõi lòng bị chà đạp. Chí Phèo mượn rượu để chửi đời, nhưng thực chất là tiếng thét cô đơn, tuyệt vọng của một con người bị tước đoạt quyền làm người: “Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!”

Và Bảo Ninh – với Nỗi buồn chiến tranh – không tô vẽ vinh quang mà dám nhìn vào hiện thực khốc liệt: chiến tranh là hủy diệt – hủy diệt tình yêu, nhân phẩm và cả quyền được sống như một con người. Những nhân vật như Kiên, Phương, Can… hiện lên sống động như vừa bước ra từ đời thực – không lên gân, không hô khẩu hiệu, mà run rẩy trong từng vết xước của chiến tranh.

Ảnh chỉ mang tính chất minh họa. Ảnh: Lý Uyên

Khả năng diễn đạt và tài năng của người nghệ sĩ

Với người cầm bút, khả năng sử dụng ngôn từ chính là phẩm chất nghệ sĩ. Cùng một đề tài, nhưng người nghệ sĩ tài năng sẽ chưng cất thành hình ảnh, ngôn từ đầy sức ám ảnh và lay động.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ cần vài câu đã dựng nên chân dung Tú Bà – trùm chứa độc ác:
“Nhác trông lờn lợt màu da,
Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao.”

Hay để khắc họa Từ Hải, ông dùng bút pháp tượng trưng, ước lệ:

“Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao…”

Trong thơ mới, mỗi nhà thơ là một thế giới riêng: Xuân Diệu nồng nàn, cầu kỳ, rất “Tây”, Huy Cận ôm nỗi sầu vũ trụ, Nguyễn Bính chân quê, đậm chất dân gian, Hàn Mặc Tử siêu thực, như tìm đến Thiên giới.

Các nhà văn cũng vậy: Nam Cao rớm máu trong từng con chữ, Nguyễn Công Hoan mỉa mai đắng chát, Vũ Trọng Phụng sắc lạnh, trào phúng, Thạch Lam nhẹ nhàng, đôn hậu, giàu chất thơ.

Ngôn ngữ là tài sản chung, nhưng ngôn từ là tiếng nói riêng của người nghệ sĩ. Một từ đúng chỗ có thể làm bừng sáng cả bài thơ. Huy Cận viết: “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.” (trích Tràng giang).

Từ “chót vót” – thường dùng cho “cao” – nay kết hợp với “sâu”, tạo ra một chiều không gian phi logic nhưng ám ảnh. Một bầu trời sâu thăm thẳm – sâu đến rợn ngợp!

Hay Nguyễn Đình Thi viết: “Những dòng sông đỏ nặng phù sa.” (trích Đất nước).

Từ “nặng” gắn với màu sắc “đỏ” – một kết hợp không thường gặp, nhưng lại khiến hình ảnh trở nên sống động, vừa có sắc, vừa có lượng.

Đó chính là tài tổ chức, sắp đặt, diễn đạt – thứ đưa văn học từ cảm xúc đến nghệ thuật.

Văn học là cái đẹp – nhưng để làm nên cái đẹp ấy, người viết cần một tâm hồn nhạy cảm, một trí tuệ sắc sảo và đặc biệt là một khả năng diễn đạt tinh tế. Khi ngôn từ trở thành nghệ thuật, nó không chỉ truyền đạt ý nghĩa – mà còn khơi dậy cảm xúc, thắp lên ánh sáng trong lòng người đọc.

Lê Nguyễn