Bác Hồ – Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng và dân tộc Việt Nam đã đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam và thế giới với tư cách là hình tượng con người đẹp nhất. Đối với các văn nghệ sĩ quê hương xứ Nghệ dường như sáng tạo hình tượng về Bác Hồ luôn đau đáu trong tâm khảm và thực tế đã có nhiều thành công lớn. Trong bài viết này, trong khả năng của mình, chúng tôi xin có một số cảm nhận bước đầu đến 4 nhà văn quê Nghệ An với những cuốn tiểu thuyết dày dặn về hình tượng Hồ Chí Minh. Đó là các nhà văn Sơn Tùng, Nguyễn Thế Kỷ, Nguyễn Thế Quang và Thiên Sơn.
1. Tiểu thuyết Khúc hát những dòng sông của Nguyễn Thế Quang và Gió bụi đầy trời của Thiên Sơn

Ngay ở trang bìa của tiểu thuyết Khúc hát những dòng sông của nhà văn Nguyễn Thế Quang (Nxb Trẻ, 2020) ghi hẳn là “Tiểu thuyết về cụ Hoàng Thị Loan thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã là quá rõ về mặt nội dung. Với hơn 300 trang sách, lấy cảm hứng từ những dòng sông mà nhân vật lịch sử là bà Hoàng Thị Loan đã sống, đã đi qua như sông Lam, sông Hương, tác giả đã tạo nên được bức tranh đa dạng về đời sống của dân tộc ta lúc bấy giờ. Hình tượng người mẹ – bà Hoàng Thị Loan được xây dựng đậm nét và sinh động, gần gũi, cần mẫn, chịu thương, chịu khó, bà dệt vải, chạy vạy lo nuôi sống cả gia đình đến kiệt sức. Bà hiện lên với tình yêu thương đằm thắm, đức hy sinh vô bờ cùng chồng là ông Nguyễn Sinh Sắc dạy con, rèn luyện con nên người. Thành công lớn nhất của tiểu thuyết là đã cho bạn đọc cảm nhận được công lao to lớn của người mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với gia đình, đối với những người con mà còn đối với quê hương, đất nước. Nhà văn Nguyễn Thế Quang đã dành riêng một cuốn tiểu thuyết để chỉ viết về bà mà có lẽ với tâm nguyện lớn về người mẹ, về đạo mẫu. Trong tiểu thuyết, bà Hoàng Thị Loan hiện lên với một cuộc sống cần lao của một người dân nô lệ nhưng dám giành lấy tự do để có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong việc hình thành nhân cách cao đẹp của cậu bé Nguyễn Sinh Cung thời thơ ấu ở Hoàng Trù, ở Huế để từ vất vả, đau thương ấy hình thành nên con người Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau này. Bà Hoàng Thị Loan là một “CON NGƯỜI” (viết hoa), hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người xứ Nghệ, của người mẹ Việt Nam. Người đọc cảm động trước tình yêu thương, đức hy sinh cao cả, tận hiến đối với chồng con của bà Hoàng Thị Loan và cảm nhận phần nào đức cao cả của một bà mẹ Tổ quốc. Chính người mẹ này cùng với gia đình, quê hương như là những dòng sông mát lành nuôi dưỡng chí hướng, bồi đắp trí tuệ và nghị lực sống để sau này cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Thật may mắn khi nhà văn Nguyễn Thế Quang xuất thân từ một gia đình có truyền thống Nho học ở Thanh Chương, Nghệ An. Từ tuổi ấu thơ, ông được tắm mình trong văn hóa xứ Nghệ, thấm đẫm đạo hiếu, đạo học, lại hơn bốn mươi năm gắn bó với nghề dạy học ở một trường cấp 3 nổi tiếng Huỳnh Thúc Kháng, ông đủ vốn sống xứ Nghệ, miền Trung để đằm mình viết Khúc hát những dòng sông với vốn ngôn ngữ quê hương Nghệ An, quê hương miền Trung sâu lắng mà thấm sâu hồn người. Có nhà văn đã khẳng định rằng, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn và nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Thế Quang đã xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ đẹp nhất – Người mẹ Làng Sen. Phần tôi, với tư cách bạn đọc, xin cảm ơn ông đã chọn lối đi riêng, chọn người mẹ Hoàng Thị Loan để nói về lãnh tụ Hồ Chí Minh cho tôi được đọc với niềm xúc động về con người và đất quê mình.

Tiểu thuyết Gió bụi đầy trời của Thiên Sơn[1] (Nxb Hội Nhà văn, 2021) đã tái bản nhiều lần cho thấy sự hấp dẫn, lôi cuốn của cuốn tiểu thuyết lịch sử này. Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết là cuộc Cách mạng Tháng Tám diễn ra trên toàn quốc, một cuộc cách mạng long trời lở đất thành lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước Dân chủ Cộng hòa đầu tiên của dân tộc Việt Nam sau gần một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, sau hàng ngàn năm chìm đắm trong đêm trường phong kiến lạc hậu. Lúc này Vua Bảo Đại thoái vị và làm cố vấn cho Chính phủ Hồ Chí Minh. Phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào, theo đó là các lực lượng Việt Quốc, Việt Cách dựa vào thế lực quân Tàu để gây sức ép, giành quyền lãnh đạo. Phía Nam, quân Anh, quân Pháp tiến vào và cuộc chiến tranh nổ ra ngay cuối tháng 9/1945. Hồ Chí Minh và Chính phủ của ông đã phải ứng phó với hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, trong Gió bụi đầy trời. Nhân vật Hồ Chí Minh đặt trong bối cảnh có người nhận xét rằng, dường như chưa có tác phẩm văn học nào lại cho xuất hiện nhiều nhân vật lịch sử thuộc nhiều phe phái đến thế trong hầu hết sự kiện quan trọng diễn ra trong hai năm 1945-1946 của đất nước. Phe “ta” có đủ từ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Văn Giàu, Tôn Quang Phiệt, Tố Hữu, Hoàng Minh Giám, Trần Huy Liệu…; phe “khác” có Bảo Đại, Nam Phương Hoàng hậu, Ngô Đình Diệm, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh… Tây, Tàu cũng đủ mặt, từ Sainteny, Argenlieu, Leclerc, Lư Hán, Tiêu Văn… Vậy Cụ Hồ của lịch sử, hình tượng Hồ Chí Minh được nhà văn đặt trong chằng chịt các mối quan hệ phức tạp được xây dựng như thế nào? Theo tôi, nhà văn Thiên Sơn đã thành công khi cho thấy trong bối cảnh “khói bụi đầy trời” ấy, hình tượng nhân vật Hồ Chí Minh vẫn hiện lên sáng rõ nhất như là nhân vật trung tâm của bức tranh sơn mài đáng giá ngàn vàng. Độc giả tò mò và thấy thỏa đáng phần nào khi được Thiên Sơn sáng tạo các sự kiện Hồ Chí Minh gặp cựu hoàng Bảo Đại và mời ông Ngô Đình Diệm tham gia Chính phủ lâm thời – những khoảng mờ trong lịch sử những năm tháng gió bụi đầy trời ấy. Bạn đọc cũng thỏa trí tò mò phần nào khi trong tiểu thuyết lịch sử này nhà văn dành những trang sách để Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm về các nhân vật lịch sử như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… vốn đang bị khuất lấp trong chính sử… Ví dụ đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với Trường Chinh: “Phải thuyết phục Vua Bảo Đại thoái vị. Tuyệt đối không sử dụng vũ lực khi chưa thật cần thiết… Ta vẫn còn cần đến ông ấy…”. Đến cuối tác phẩm, cố vấn Bảo Đại được Hồ Chí Minh cử sang Trùng Khánh, thay mặt Nhà nước Việt Nam nhằm tạo mối quan hệ hữu hảo lâu dài với Trung Quốc theo đề nghị của Nguyễn Tường Tam. Hay khi Ngô Đình Diệm bị bắt trên đường ra Huế gặp Bảo Đại, quân tự vệ đối xử thô bạo, nhưng rồi thượng cấp ra lệnh chở ông ta ra Hà Nội và Hồ Chí Minh đã thân mật tiếp: “Tôi mời ông đến với tinh thần hợp tác đối với một người yêu nước… Tôi biết rõ và tôn trọng những việc ông làm trước đây…”. Ngô Đình Diệm từ chối không tham gia Chính phủ và được Hồ Chí Minh thả tự do. Tất cả những điều ấy nói lên rằng, tác giả đã xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh thể hiện một tinh thần đại đoàn kết trong thời kỳ chính quyền cách mạng còn non trẻ, không chỉ đối với Bảo Đại mà còn đối với những người tham gia chính thể cũ trong suốt thời kì trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Đây đúng là tư tưởng Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh. Có điều những nhân vật như Bảo Đại, Ngô Đình Diệm sau này là những con người đi ngược lại con đường chân chính của dân tộc nên nhiều nhà văn cũng ngại sáng tạo về sự kiện lịch sử này. Khoan hãy nói chuyện thành công đến mức nào, nhưng chúng ta có thể đồng tình và tâm đắc với tác giả vì anh đã “cả gan” để sáng tạo về nhân vật lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa làn ranh giới mỏng manh của lịch sử và văn học trong thời điểm khó khăn, phức tạp nhất của đất nước. Gió bụi đầy trời đứng vững được có lẽ là thể hiện rõ và nhất quán quan điểm nhân đạo, chính sách mềm dẻo, đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bước ngoặt lịch sử quan trọng 1945-1946. Đó là sự thay đổi đáng kể và đáng mừng trong cảm thụ văn học của bạn đọc mới ngày nay.
Nhà văn Nguyễn Thế Quang và nhà văn Thiên Sơn thuộc hai thế hệ tuổi đời khác nhau, cùng xuất bản tiểu thuyết về hình tượng Hồ Chí Minh cùng một thời điểm và đều có những thành công. Rất tiếc do thời gian có hạn, chúng tôi chưa thể nói sâu hơn về những nguyên nhân thành công của 2 nhà văn gốc Nghệ này.
2. Những tiểu thuyết đồ sộ của Sơn Tùng và bộ tiểu thuyết 5 tập của Nguyễn Thế Kỷ
Nhà văn Sơn Tùng xuất bản tiểu thuyết Búp sen xanh (Nxb Kim Đồng, 1982), tiểu thuyết Bông sen vàng (Nxb Đà Nẵng, 1990), Thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở Trường Dục Thanh (Nxb Kim Đồng, 2016), Trái tim quả đất (Nxb Thanh Niên, 1990), Hẹn gặp ở Sài Gòn (kịch văn phim truyện, 1990) là những tác phẩm đạt được những thành công lớn.

Nhà văn Sơn Tùng tên thật là Bùi Sơn Tùng sinh năm 1928, tại xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sinh thời ông có mối quan hệ thân tình với cụ Nguyễn Thị Thanh và cụ Nguyễn Sinh Khiêm, chị ruột và anh ruột Chủ tịch Hồ Chí Minh, được 2 cụ kể chuyện, cung cấp nhiều tư liệu quý về gia đình và thời thơ ấu của Bác. Ông viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tất cả lòng ngưỡng mộ, say mê và tôn thờ. Những tác phẩm văn học viết về đề tài Bác Hồ của ông chứa đựng những cứ liệu lịch sử chân xác về sự hình thành nhân cách và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử thời đại.
Nhà văn Sơn Tùng viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng lòng thành kính như một tôn giáo riêng. Ông dành cả cuộc đời của mình từ khi mới ngoài 20 tuổi đến năm hơn 80 tuổi để tìm hiểu về Bác, sáng tạo về Người với một nghị lực vô song. Ông chấp nhận mọi thiệt thòi của cuộc sống, để sáng tạo về Bác như là sự dâng hiến đến tận lực, tận tâm. Dường như ông có một gia tài duy nhất là sáng tạo văn chương về Bác… Nhà văn Sơn Tùng từng chia sẻ: “Không phải do một sự ngẫu nhiên, một sự tình cờ, mà từ tình yêu kính Bác với một quá trình hình thành và tích lũy trong tâm hồn tôi đã dẫn đến việc cầm bút viết những trang kể về một số hình ảnh thuở thiếu thời của Hồ Chủ tịch”.
Thành công nhất của nhà văn Sơn Tùng là người đầu tiên, người mở đầu sáng tác về hình tượng Hồ Chí Minh trong văn học Việt Nam. Từ Búp sen xanh (tái bản hơn 40 lần) đến Bông sen vàng, Thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở Trường Dục Thanh, Hẹn gặp ở Sài Gòn… Sơn Tùng đã dành tâm sức và tài năng cho quá trình lao động sáng tạo về thời thơ ấu, thời niên thiếu và thời thanh niên của Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành. Qua hình tượng văn học Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành trong các cuốn tiểu thuyết, nhà văn Sơn Tùng đã thành công khi dồn tâm sức và bút lực sáng tạo như một sự lý giải quá trình hình thành nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh thời trẻ dưới sự tác động của phong thủy, văn hóa của quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, của kinh đô Huế, sự dạy dỗ, giáo dục của người cha Nguyễn Sinh Sắc và người mẹ Hoàng Thị Loan, truyền thống gia đình họ Hoàng bên làng Hoàng Trù, xã Kim Liên… Nhân cách, tình cảm yêu nước, thương nòi của Hồ Chí Minh thời trẻ còn được Sơn Tùng đặt Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành trong mối quan hệ với các thầy học như Vương Thúc Quý, Nguyễn Sinh Sắc, Lê Văn Miến, với các bậc thúc Nho, chí sĩ yêu nước, nặng lòng về dân tộc như Phan Bội Châu, Đào Tấn, Cao Xuân Dục, Hồ Sỹ Tạo, Phan Chu Trinh…, nghĩa là các quan nhân yêu nước xứ Nghệ và cả nước. Sơn Tùng ngầm thể hiện một cách đánh giá rằng, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, truyền thống lịch sử văn hóa vùng đất miền Trung “địa linh nhân kiệt” và đặc biệt là gia phong, nếp nhà họ Hoàng, họ Nguyễn đã góp phần vô cùng quan trọng hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Thông điệp này qua sáng tạo hư cấu của nhà văn trong các tác phẩm thời điểm cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí có ý kiến quy chụp. Sơn Tùng đã lặng lẽ chịu trận. Có một số bài báo đã phê phán Sơn Tùng khá nặng lời. Nhà văn Sơn Tùng kể với chúng tôi rằng, ngày đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời vợ chồng nhà văn Sơn Tùng – Phan Hồng Mai tới nhà riêng Thủ tướng dùng cơm và hỏi chuyện. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nghe Sơn Tùng tâm sự, ông vô cùng cảm kích, xúc động khi biết nhà văn thương binh nặng Sơn Tùng phải dùng dây cao su cột cây bút vào ngón tay bị thương của mình để viết Búp sen xanh, chuyện vợ chồng nhà văn dành dụm những đồng bạc cuối cùng để dìu nhau vào miền Nam sau năm 1975 tìm tư liệu về Bác Hồ và gia đình Người lúc nhà văn vừa ra viện còn rất yếu với lý do “phải vào nhanh kẻo sau giải phóng người ta không biết thì hủy mất tư liệu quý giá…”. Thủ tướng rất tâm đắc và dành nhiều lời ngợi khen cho cuốn sách này. Thủ tướng đã có ý định viết lời tựa cho cuốn Búp sen xanh vào lần tái bản thứ nhất năm 1983. Nhưng sau đó, Ban Biên tập cuốn sách sau khi cân nhắc kỹ lưỡng và được sự đồng ý của nhà văn Sơn Tùng đã quyết định chưa in giới thiệu bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong lần tái bản đó. Mãi tới năm 2005, nhà văn Sơn Tùng cùng Nhà xuất bản Kim Đồng mới trân trọng in toàn văn bức thư của Thủ tướng trong lần tái bản Búp sen xanh. Bức thư có đoạn: “Cuốn sách Búp sen xanh nêu lên một vấn đề ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không? Về vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung và tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song, ở đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân dân”. Ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho tiểu thuyết Búp sen xanh đã gợi ý cho một phương pháp sáng tác giữa văn học và nhân vật lịch sử, nhất là nhân vật lãnh tụ. Vì thế có thể nói nhà văn, Anh hùng Lao động Sơn Tùng là người đầu tiên có công mở đường cho sáng tạo văn học về lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Là người xứ Nghệ có vốn Hán học và thông thạo tiếng Pháp, nhưng nhà văn Sơn Tùng trong tiểu thuyết viết về Hồ Chí Minh thời trẻ đã sử dụng vốn ngôn ngữ tiếng Việt chuẩn mực, trong sáng, đặc biệt đã chắt lọc tiếng Nghệ, lời ăn tiếng nói xứ Nghệ rất đắt giá. Văn phong của ông đằm thắm, sâu sắc, tốc độ chậm rãi như cuộc sống thời đó. Hãy đọc một đoạn văn điển hình, cố kính của văn phong Sơn Tùng trong sáng tạo về hình tượng Hồ Chí Minh thời trẻ:
“Một cụ già, tay vót hom giỏ, từ nãy vẫn ngồi im lặng nghe mọi người trò chuyện. Bỗng cụ cắm lưỡi mác xuống đất, tựa hai bàn tay lên cán, mắt chớp chớp, nói:
– Răng lại nhủ là “có còn chi nữa mà mong với đợi”? Nước có lúc suy lúc thịnh, nhưng có khi mô hết được những bậc hiền tài lo việc giữ nước, việc cứu nước. Cây cổ thụ ni bị gãy thì rồi sẽ có cây khác mọc lên. Rừng không bao giờ hết cây, dân không khi mô hết người tài cao chí lớn mô.
Mọi người nhìn cụ già vẻ hợp lý. Ông Xẩm đưa ống tay áo lên lau hai hố mắt. Ông vẫn mấp máy cánh mũi về phía ngọn gió:
– Dịp ni sen nở nhiều. Ngồi ở chỗ mô cũng được ngửi hương sen…”[2]
Như là sự lương duyên, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ có quan hệ thân tình với nhà văn Sơn Tùng cả ngoài đời và trong văn chương tuy tuổi tác thuộc hai thế hệ. Nguyễn Thế Kỷ sinh năm 1959, tại xã Liên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trước khi đến với văn chương ông là một nhà báo tài năng, một nhà hoạt động chính trị có tâm và có tầm đã đảm đương nhiều chức vụ quan trọng từ địa phương đến Trung ương. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ được đào tạo rất cơ bản, đa ngành, đa lĩnh vực, nắm giữ các cương vị công tác quan trọng, bộn bề và không kém phần khó khăn, phức tạp. Quả là quá thiệt thòi cho cuộc sống nói chung, cho văn nghệ nói riêng nếu vì một lý do nào đó, ông không đến được với văn chương, nghệ thuật. Bởi ở Việt Nam rất hiếm có người như ông được đào tạo nhiều tầng nấc, chính quy cả trong và ngoài nước, có vốn sống đầy đặn về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, văn nghệ; có điều kiện thâm nhập, tích lũy tư liệu, chất liệu từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước ra nước ngoài, từ chi tiết đến đại cục. Ông lại là người cần mẫn, say mê văn chương, đặc biệt biết tích lũy vốn kiến thức, kỹ năng viết lách hàng chục năm rồi mới phát lộ và thăng hoa. Hình như đây là lợi thế so sánh của ông với nhiều nhà văn, nghệ sỹ khác.

Bằng bộ tiểu thuyết 5 tập Nước non vạn dặm, Nguyễn Thế Kỷ là người duy nhất cho đến nay “cả gan” dành tâm huyết, trí tuệ, tài năng, vốn sống để viết về hình tượng Hồ Chí Minh suốt trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là một thử thách lớn, thậm chí nghiệt ngã đối với bất cứ nhà văn nào. Thử thách đó, trước hết là tầm vóc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một người yêu nước, một chiến sĩ cách mạng, một lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Người được tổ chức UNESCO tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Việc tích lũy tư liệu, phân tích tư liệu, lựa chọn các sự kiện lịch sử, các nhân vật gần gũi với nhân vật Hồ Chí Minh… sẽ là sự kết hợp của tư duy, thi pháp văn chương và bản lĩnh chính trị mới đủ sức, đủ tài viết bộ tiểu thuyết sử thi này. Rất nhiều nhà văn khi viết về nhân vật lịch sử dễ sa vào “bẫy lịch sử”. Nhưng đây là văn chương, là hư cấu, là sáng tạo… Do đó nhà văn nhiều khi như “làm xiếc”, như đi trên dây; nghiêng nhiều về lịch sử sẽ sa vào chép sử, nhưng hư cấu quá đà lại dễ sa vào những sai lỗi, những thái quá. Mỗi sáng tạo và hư cấu về hình tượng Bác Hồ dù là nhỏ nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người đều được soi xét dưới ánh sáng của lịch sử, chính trị, nghệ thuật, đạo đức và tâm linh. Có thể nói, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã vượt qua thử thách to lớn trên một cách ngoạn mục. Cho đến nay, với 4/5 tập đã ra mắt công chúng, dung lượng lên tới 1000 trang sách, hình tượng Hồ Chí Minh đã hiện lên thật đẹp, thật sắc nét, tự nhiên, gần gũi, đời thường và đặc biệt rất con người, nhất là con người của tâm hồn, tình cảm, đạo lý, nhân văn. Tôi đọc và biết nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến Bác Hồ, ông dùng văn học để có ý “cải chính” một cách khéo léo, thậm chí tinh tế với dư luận sai lệch, kể cả sự cố ý của kẻ xấu, kẻ ác. Và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhân vật Hồ Chí Minh, hình tượng Hồ Chí Minh trong bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm của Nguyễn Thế Kỷ cũng cuồn cuộn một khát vọng độc lập cho dân tộc, tự do, hòa bình và hạnh phúc cho nhân dân. Điều rất rõ, rất đáng ghi nhận là tác giả không chọn lối viết thần thánh hóa Bác Hồ. Đã vậy, dường như nhiều sự kiện gọi là “vùng mờ” của lịch sử được Nguyễn Thế Kỷ dựng lại bằng đời sống thực với sự sống muôn màu hấp dẫn. Trong tập 3 “Từ Việt Bắc về Hà Nội” những cảnh Bác sống ở hang Pác Bó ngày mới về nước, cảnh Người và Đặng Văn Cáp cùng làm thơ về suối Lê-nin, cảnh Bác cùng Lê Quảng Ba và Dương Đại Lâm mài đá in báo Việt Nam Độc lập là những chi tiết sống động của tiểu thuyết giàu chất điện ảnh hết sức thú vị, cho ta sống lại khung cảnh núi rừng Việt Bắc một cách đầy xúc cảm. Nhất là cảnh Bác Hồ bị chế độ Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây một cách vô cớ cũng như Bác và các đồng chí của Người ở Việt Nam, các đồng chí đoàn cố vấn Liên Xô, sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh, Chu Ân Lai (Trung Quốc), các cơ quan báo chí can thiệp chính quyền Tưởng Giới Thạch và cả những người dân yêu nước Trung Quốc đã cứu Người ra khỏi nhà tù… khiến người đọc xúc động rơi nước mắt. Những trang văn như thế không hiếm trong Nước non vạn dặm.
Bằng trách nhiệm và tình cảm lớn đối với công lao và cuộc đời cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với lợi thế hiểu biết và tư liệu nhiều chiều, cộng với niềm say mê sáng tạo nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã thành công. Tôi biết, ông còn nhiều tư liệu để dành hoặc đang xử lý, nếu còn có chỗ đáng tiếc nào đó mà bạn đọc chưa thỏa mãn trong bộ tiểu thuyết này, có lẽ cũng vì do tính trách nhiệm của một nhà hoạt động chính trị nên Nguyễn Thế Kỷ chưa tung hết vốn chăng? Chúng ta hãy tiếp tục chờ đợi.
Trong Nước non vạn dặm, Nguyễn Thế Kỷ chọn lối viết biên niên sử, câu chuyện diễn ra theo trật tự thời gian tuyến tính nhưng hấp dẫn bạn đọc bằng sự dung dị mà xúc động trong lối kể chuyện, lời văn khúc chiết, trau chuốt, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh. Văn của ông hiện đại, tốc độ nhanh nhằm phản ánh hiện thực đồ sộ một cách hiệu quả nhất. Nhiều câu chuyện, sự kiện giàu tính sân khấu, phong cảnh và bối cảnh giàu chất điện ảnh. Nhiều lúc Nguyễn Thế Kỷ chủ động dừng bút chậm lại, ông miên man miêu tả về phong cảnh, về phong tục và đời sống nhiều vùng đất làng quê Trung Quốc và Việt Nam những năm 1940, nơi Bác Hồ từng sống hết sức gợi cảm, gây cảm xúc bất ngờ đối với người đọc. Ví như cảnh ngồi trước mâm cỗ ngày Tết của một gia đình người Tày Cao Bằng ngày đầu tiên Bác về nước, nhà văn lắng lại bằng những câu văn đẹp: “Ông không thấy đói dù lúc này đã quá bữa rồi. Mùi hương trầm trên ban thờ gia tiên ở gian giữa thoang thoảng khắp nhà. Trời lạnh. Cái lạnh sâu và ngọt. Bên ngoài hiên nhà gió đang lùa tới, lay những chiếc lá hồng cuối cùng rụng xuống sân. Đã trải qua những mùa đông lạnh giá dưới độ âm, chân tay tê cứng, với cái bụng đói và áo quần không đủ giữ nhiệt cơ thể ở trời Tây, nhưng ông vẫn thấy nhớ mùa đông quê nhà. Thứ mùa đông nghèo khó nhưng gần gụi, thân thuộc. Khi ra đi là một thanh niên, khi trở về tóc đã điểm bạc”[3]. Hoặc lúc Nguyễn Ái Quốc cùng với Dương Đào, một thanh niên yêu nước dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc dẫn đường Bác đi qua huyện Tĩnh Tây, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ tả “Mấy năm trước dừng chân ở Tĩnh Tây, ông đã từng biết đến một hẻm núi rất đẹp, có một con thác lớn, nằm giữa rừng. Hai bác cháu rong ruổi đi theo đường cái quan, hai bên những ruộng kiều mạch sắp chín đang trĩu nặng, thơm ngát. Khung cảnh thật thanh bình. Đi hết thung lũng đầy kiều mạch thì tới khu vực toàn núi đá vôi xếp chồng chồng lớp lớp như thành lũy. Tứ bề chỉ một màu đá xám ngắt, cây cối mọc thưa thớt. Con đường nhỏ chẳng biết được đục đẽo từ bao giờ nằm dưới những vách đá dựng đứng. Hai bác cháu người trước người sau cắm cúi đi. Không gian vắng lặng. Chốc chốc chỉ có tiếng vượn hú tít trên những tán cây chót vót văng lại. Chốc chốc một cánh chim bay ra từ vách đá, liệng vài vòng hoang hoải…”[4] Tôi nghĩ, đối với một nhà văn, đó là thành công lớn rồi.

3. Thay lời kết
Tiểu thuyết sáng tác về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam không nhiều. Chúng ta trân trọng mỗi trang văn, trang thơ viết về Bác bởi đó là cả tấm lòng, tình cảm và trách nhiệm của mỗi văn nghệ sĩ đối với lịch sử và lãnh tụ mà bạn đọc, nhất là các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước luôn đón đợi. Theo khảo sát và sức đọc của tôi, tôi có cảm tình và rất thích thú với các tiểu thuyết viết về Bác Hồ của các nhà văn xứ Nghệ, tiểu biểu như Sơn Tùng, Nguyễn Thế Kỷ, Nguyễn Thế Quang và Thiên Sơn… Thành công của các tác giả có lẽ có cả tình yêu, lòng biết ơn, lòng ngưỡng mộ về Bác Hồ kính yêu, đặc biệt là có cả vốn sống, nghĩa tình quê hương, thế núi, hình sông, đất đai bờ bãi thấm sâu, ám vào con chữ hình thành nên những trang văn. Các tác giả đều là những nhà văn dấn thân, đáng được tôn vinh. Hy vọng trong giai đoạn tới, vùng đất này sẽ có thêm nhiều văn nghệ sĩ xứ Nghệ chúng ta sáng tạo tác phẩm thành công hơn, hay hơn về Bác trong góc nhìn thời cuộc mới.
Nguyễn Hồng Thái
1. Thiên Sơn tên thật là Nguyễn Xuân Hoàng sinh năm 1975 tại xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Theo nhà văn tâm sự, Nguyễn Xuân Hoàng là tên do nhà văn Sơn Tùng góp ý với bố mẹ đặt tên cho anh lúc vừa mới sinh tại quê nhà.
2. Búp sen xanh. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010, trang 8-9.
3. Nước non vạn dặm. Tập 3: Từ Việt Bắc về Hà Nội, Nxb Văn học, Hà Nội, 2024, trang 15-16.
4. Sách đã dẫn, trang 89.














