Ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 02/9/1945 mà bây giờ ta vẫn gọi là Tết Độc lập, là một cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đó là ngày một quốc gia độc lập được khai sinh sau nhiều năm bị đô hộ dưới sự thống trị của thực dân, phong kiến. Và đây cũng là một mốc son chói lọi trong quá trình giải phóng con người Việt Nam suốt hàng ngàn năm qua.
Trong lịch sử Việt Nam trước 1945, vấn đề quyền con người ít được quan tâm. Trong khi hành trình giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước trước các cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc diễn ra thường xuyên và trở thành trọng tâm của lịch sử. Nhưng việc giải phóng con người thì vẫn chưa được quan tâm nhiều trên bình diện quốc gia, chủ yếu tồn tại qua những tư tưởng cá nhân của một số nhân vật. Con người Việt Nam thời phong kiến vẫn là con người Thần dân, bị nô dịch từ trong ý thức hệ, từ quan điểm tư tưởng vốn chịu nhiều ảnh hướng của Nho giáo từ Trung quốc. Người đàn ông không thoát ra được khỏi đạo quân tử, quan hệ vua tôi, còn phụ nữ thì không thoát ra được sự kìm hãm của tam tòng tứ đức, của công-dung-ngôn-hạnh. Bên cạnh đó là sự phân biệt giới tính, trọng nam khinh nữ. Nói chung, đó là con người thần phục, con người chức năng, chỉ biết làm việc và hoàn thành cái gọi là nhiệm vụ, là chức trách, là nghĩa vụ và sứ mệnh. Nói chung là sống để phục vụ cho các tập đoàn lợi ích phong kiến dù vẫn được gắn liền với tinh thần dân tộc. Đến thời Pháp thuộc lại bị nô dịch tiếp với tư cách là dân thuộc địa, lạc hậu và cần phải được khai minh, giáo hoá. Bị chế độ thực dân nô dịch cả tinh thần lẫn thể xác. Có thể nói, cho đến năm 1945, Việt Nam chưa xuất hiện con người công dân, con người cá nhân đúng nghĩa. Con người công dân, như học giả Trần Định Hượu gọi là “cá nhân về mặt chính trị”, đó cũng là một quyền cơ bản của con người, thì người Việt Nam chưa có.
Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong bản Tuyên ngôn trọng đại mang tính lịch sử này, bên cạnh việc tuyên bố về sự ra đời của một quốc gia độc lập, còn có sự tuyên bố về giá trị của con người Việt Nam, về việc giải phóng con người. Đây có thể coi là tuyên ngôn về quyền con người của Việt Nam. Và nó mở đầu cho cả quá trình giải phóng con người suốt gần 8 thập kỷ qua của chúng ta. Bởi con người là trung tâm, là nền tảng của mọi quốc gia. Giải phóng con người là vẫn đề quan trọng, là nhiệm vụ và cũng là mục tiêu của các cuộc cách mạng, của sự nghiệp phát triển chung của nhân loại cũng như riêng của các quốc gia.

Các tuyên ngôn độc lập hay các tuyên bố quan trọng của nhiều nước trên thế giới đều nhấn mạnh đến quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những người lãnh đạo cách mạng đã nhấn mạnh điều đó trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Bắt đầu từ trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp đến là trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đây là cơ sở lý luận mang tính chất quốc tế mà Hồ Chí Minh đã lấy để làm cơ sở lý luận cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Và đây cũng là nhấn mạnh đến vai trò của quyền con người, nhấn mạnh sứ mệnh lịch sử của cách mạng là vươn lên để bảo vệ và phát triển các quyền con người, mà cơ bản nhất là quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Quyền con người là điều kiện cơ bản để tập trung lực lượng, đoàn kết nhân dân cùng đấu tranh giải phóng dân tộc. Và quyền con người cũng chỉ được đảm bảo trong một quốc gia độc lập. Vậy nên để tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” thì phải dựa vào những quyền con người đã được nhân loại tôn trọng. Lấy quyền con người làm nền tảng mới bảo vệ được một đất nước độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Trong xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ điều này qua tuyên bố: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập là dành cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam, và tự do là dành cho mọi con người Việt Nam. Độc lập và tự do gắn liền với nhau. Đất nước độc lập để con người được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Và con người tự do là nguồn lực để phát triển đất nước, là cội nguồn sức mạnh chung để bảo vệ dân tộc. Vậy nên, Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 cũng là bản tuyên ngôn về quyền con người, đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc giải phóng con người ở Việt Nam. Có thể coi đây là một bản tuyên ngôn giải phóng con người Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng trong quá trình chuyển biến từ con người Thần dân sang con người Công dân ở Việt Nam. Nó mở được cho việc thực hành các quyền cơ bản của con người sau đó.
Trong các quyền cơ bản của con người thì quyền tham gia chính trị là một điều mẫu chốt. Trước đó, trong cả bề dày lịch sử ngàn năm, người dân Việt Nam không có quyền tham gia chính trị một cách rộng rãi và bình đẳng. Nhưng sau khi có bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền của một quốc gia độc lập, quyền của các công dân của một quốc gia độc lập thì quyền tham gia chính trị của người dân được hình thành và phát triển. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của đất nước Việt Nam vào ngày 06/01/1946. Trong điều 2 Sắc lệnh 14-SL ra ngày 8 tháng 9 năm 1945 của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường”.

Và ngày 6/1/1946, trong cả nước có khoảng 89% cử tri đã đi bỏ phiếu để bầu ra những người đại diện cho mình vào Quốc hội để xây dựng chính sách quản lý nhà nước. Đây là lần đầu tiên mà hầu hết cử tri được thể hiện quyền công dân khi được tham gia bầu cử và ứng cử, cũng là một thể hiện quan trọng trong thực hành quyền chính trị của con người. Bên cạnh quyền tham gia chính trị thì các quyền cơ bản khác như quyền bình đẳng trên mọi phương diện, quyền học tập, quyền về tài sản, quyền tự do ngôn luận… đều được quan tâm và đảm bảo. Đây cũng là một bước phát triển mới, đưa tư tưởng, tinh thần về bảo đảm quyền con người, về giải phóng con người trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 vào cuộc sống. Vấn đề đó tiếp tục được khảng định trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946. Nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp là “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các quyền tự do dân chủ”. Từ điều 6 đến điều 16 của Hiến pháp 1946 cũng quy định về các quyền cơ bản của người dân. Đây là những giá trị quan trọng, là nền tảng để người dân tin tưởng vào chính quyền và đoàn kết với nhau để bảo vệ đất nước, bảo về nền độc lập dân tộc và cũng là để bảo vệ quyền cơ bản của chính mình. Sau này, dù có nhiều thay đổi, các Hiến pháp mới được xây dựng, sửa đổi và bổ sung dựa trên sự kế thừa các Hiến pháp trước đó, nhưng tư tưởng và tinh thần về quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 vẫn là nội dung quan trọng. Nó cũng là kim chỉ nam cho nhiều chính sách trong các chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước.
Nói tóm lại, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định sự ra đời và quyền độc lập của một quốc gia. Nhưng nó cũng là một sự kiện quan trọng trong công cuộc giải phóng con người mà các thế hệ người dân Việt Nam theo đuổi. Trong lịch sử ngàn năm làm Thần dân, từ đây con người Việt Nam bắt đầu trở thành Công dân và được thực hành các quyền công dân một cách rộng rãi. Trong suốt 80 năm qua, Đảng và Nhà nước không ngừng bảo vệ và phát triển các quyền con người đã được tuyên bố trong bản Tuyên ngôn đó. Và cũng trong từng ấy thời gian, người dân Việt Nam đã không ngần ngại hy sinh xương máu để bảo vệ những quyền cơ bản của chính mình.
Vậy nên có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập là cột mốc chói lọi, là bước ngoặt quan trọng trong công cuộc giải phóng con người ở Việt Nam. Bản Tuyên ngôn đã tiếp cận được tư tưởng giải phóng con người của nhân loại, vừa tích hợp được các vấn đề liên quan đến bối cảnh văn hoá và con người Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa tư tưởng tiến bộ của nhân loại và văn hoá truyền thống Việt Nam. Ngày nay, chúng ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới phát triển. Những vấn đề liên quan đến quyền con người ngày càng được đề cao với những tiêu chí mới trong bối cảnh mới. Nhưng những tư tưởng từ bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn thể hiện được nguyên giá trị. Và điều cần thiết là từ đó, chúng ta tiếp tục mở rộng, nâng cao để đảm bảo, phát triển quyền của con người Việt Nam sao cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại cũng như bối cảnh cụ thể ở Việt Nam hiện nay.
Thiên Trang














