“Sài Gòn chẳng bao giờ hết chuyện để viết”. Đây là câu trả lời của nhà văn Tống Phước Bảo trong một bài phỏng vấn vào năm 2021. Và từ dạo ấy đến nay, một cách diệu kì, tôi luôn đau đáu nhớ về nó. Người ta hay nói vui rằng Tống Phước Bảo là nhà văn của những dòng sông, còn với tôi, tôi nghĩ anh là một nhà văn của Sài Gòn, khi dường như chuyện về Sài Gòn trong anh chưa bao giờ vơi đi, dù chỉ là một chút. Và hôm nay, cầm trên tay quyển sách mới mang tên “Từ thành phố này” của anh lại khiến tôi nhớ đến câu phỏng vấn năm nào.

“Từ thành phố này” của nhà văn Tống Phước Bảo được chia làm ba phần: “Chuyện xưa người cũ ủ một miền thương”, “Nghe thành phố kể”, và “Hồn quê vị xứ cát cứ hẻm nhỏ”. Ba tựa đề mà chỉ cần đọc lên đã thấy một thứ gì rất mềm, rất khẽ, rất thơ, như tên gọi của một bài vọng cổ cũ, hoặc một bản nhạc Trịnh được ngân lên từ một quán cà phê quận Ba nào đó vào chiều Chủ Nhật. Những điều Tống Phước Bảo viết là những vết hằn dịu dàng của thành phố trong trí nhớ người ở lại. Tôi đặc biệt ấn tượng với những đoạn anh viết về Sài Gòn trong mùa dịch, nơi những quầy ATM gạo mọc lên như một phản xạ đầy yêu thương, nơi có những bữa cơm từ thiện lặng lẽ chuyền tay nhau, và cả sự nhốn nháo dễ thương của những ngày đầu tích trữ lương thực. Anh không trách, không phán xét, mà chỉ thấu hiểu và nhắc nhở bằng sự tử tế: “Thế nên, với những bài viết chê trách Sài Gòn mùa này, quả thật là thiển cận và ấu trĩ khi chưa dùng sự thấu tình đạt lý mà hiểu và thương Sài Gòn.” Tôi đọc đoạn ấy mà tự nhiên rưng rưng nhớ. Bởi thật ra chẳng có nơi nào không từng hoảng loạn. Nhưng có nơi người ta hoảng loạn rồi bỏ chạy. Còn Sài Gòn người ta hoảng loạn rồi ở lại, rồi sẻ chia, rồi giúp nhau qua mùa khó.
Tôi vẫn thường nghĩ nếu có một thứ gì có thể cất dùm ký ức thì chỉ có thể là văn chương. Và trong cuốn sách này, Tống Phước Bảo đã làm điều đó như một người giữ ký ức của phố, nhưng không chỉ là ký ức về nơi chốn mà là ký ức về lòng người. Phần đầu của sách là một cuộc trở về, trở về những gì từng là thân thuộc, ví như Hào Sĩ Phường, nơi mang trong mình lớp trầm tích của lịch sử và văn hóa, được Tống Phước Bảo kể lại không chỉ bằng tình yêu mà còn bằng một sự tìm hiểu nghiêm cẩn. Giữa những trang viết ấy, có cảm giác như mình đang đọc một nghiên cứu văn hóa chứ không chỉ là một bài tản văn. Nhưng lạ lùng thay, dù viết như khảo cứu, vẫn không mất đi hơi thở của cảm xúc. Những câu như “vàng phai lên nỗi đời của người cũ”, hay “liến xáo thị thành” không chỉ là lối dùng từ điệu nghệ mà còn là những lát cắt của tâm tình. Có những đoạn tôi phải dừng lại, lấy bút đen gạch dưới từng cụm từ như “ráo hoảnh đãi bôi của thị thành”, hay “kim tiền chật vật”. Cách dùng từ của Tống Phước Bảo khiến tôi nghĩ đến một thế hệ nhà văn đã sống lâu với chữ. Anh không dùng chữ để phô mà để nói những điều không thể nói bằng lời thường.
Có một đoạn trong sách mà tôi rất nhớ, khi người bạn người Mỹ của tác giả hỏi tại sao nơi đâu ở Sài Gòn cũng có những thứ cho không biếu không vậy? Trà đá miễn phí, bánh mì miễn phí, quần áo miễn phí, thậm chí tủ thuốc miễn phí đầu hẻm? Anh viết một câu khiến tôi lặng người thật lâu: “Với mảnh đất này, con người ta vì nhau mà sống. Sống với những cho nhận không hề toan tính.” Một câu ngắn mà gói cả triết lý sống của người Sài Gòn. Không cần tuyên ngôn về lòng tốt, chỉ âm thầm gieo nó như cách người ta để lại ly nước trước cửa nhà cho người lao công đi ngang mỗi trưa hè. Và Sài Gòn luôn hiện diện bằng sự tử tế đúng lúc nhất khi người ta cần.
Tôi cũng đặc biệt yêu mến cách tác giả Tống Phước Bảo dành hẳn phần ba của cuốn sách cho “hẻm”, một đơn vị địa lý và tình cảm không thể thiếu của đời sống Sài Gòn. Với người Sài Gòn, hẻm không chỉ là lối đi. Đó là một cấu trúc văn hóa, là hệ thống mạch máu len lỏi khắp thân thể thành phố, nơi ẩn chứa sinh hoạt, nếp sống, niềm vui và cả nỗi buồn. Không có nơi nào như Sài Gòn, nơi “hẻm” trở thành một phần của danh tính đô thị, nơi người ta không chỉ tìm đường bằng tên đường, mà còn bằng số hẻm, hẻm trong hẻm, hẻm phụ của hẻm chính, nơi các mùi vị, âm thanh, tập tục và cả lịch sử cộng đồng được lưu giữ bằng từng viên gạch lát chênh, từng bức tường lấm sơn rêu. Anh kể về hẻm 15B Lê Thánh Tôn, một phố Nhật đặc thù giữa lòng quận Nhất, về hẻm 76 Hai Bà Trưng với những món ngon làm hài lòng dân văn phòng từ sáng sớm tới chiều muộn, về hẻm 39 Lý Thường Kiệt, nơi cộng đồng người Hẹ giữ lại được không gian sống truyền thống giữa lòng đô thị mới. Mỗi hẻm là một thế giới riêng, có thời gian riêng, mùi vị riêng, nhịp thở riêng. Và hẻm cũng là nơi người ta sống gần nhau, nghe rõ tiếng rao, tiếng chổi, tiếng mẹ gọi con và cả tiếng người thương chia tay. Hẻm vì thế không chỉ là lối phụ của đô thị mà là nơi người ta chạm vào chất người của Sài Gòn rõ ràng nhất. Một Sài Gòn có thể đa dạng đến rối rắm nhưng trong mỗi hẻm nhỏ ấy lại mang một trật tự nhân sinh mà bất kỳ người con xa xứ nào cũng có thể tìm thấy chính mình khi trở lại.

Tôi gọi “Từ thành phố này” là một cuốn sách biết thương. Nó không hoài cổ theo kiểu trách móc thời nay, cũng không tô hồng quá khứ như một cách tự ru ngủ. Nó trung thành với từng hơi thở của thành phố. Và trong từng câu chữ của Tống Phước Bảo, người đọc như thấy mình được dỗ dành: Sài Gòn vẫn thế, chỉ là bạn có còn đủ lặng để nghe không? Có những lúc tôi nghĩ, nếu mỗi thành phố đều có một người giữ ký ức, thì với Sài Gòn, đó chính là Tống Phước Bảo, một nhà văn cùng lòng trung thành với những điều nhỏ, và sự nâng niu không vụ lợi với từng mảnh vụn đời sống mà anh đã đặt để cho vùng đất này. Để những ai đã từng yêu Sài Gòn có thể thấy lòng mình được gọi tên. Và những ai chưa từng đến Sài Gòn thì có thể bước vào đó bằng cánh cửa của sự đồng cảm và thương yêu.
Đọc “Từ thành phố này”, tôi hoài niệm hơn về những mùa tuổi trẻ tôi đã đi qua. Từ thành phố này, tôi đã lớn lên. Từ thành phố này, tôi đã học cách im lặng khi nên lặng im, và lên tiếng khi cần thiết. Từ thành phố này, tôi đã biết thế nào là thương một nơi không phải nơi mình sinh ra, nhưng lại có thể là nơi mình sẽ nhắm mắt bình yên một ngày nào đó. Có lẽ ai rồi cũng phải chọn cho mình một nơi để mà thuộc về. Tôi không biết liệu mình có sống ở Sài Gòn mãi không. Nhưng có một điều tôi biết chắc là dẫu có đi đâu, khi ai đó nhắc về nơi chốn gọi là quê, tôi vẫn sẽ mỉm cười, nhìn xa về phía mặt trời đang khuất sau dãy nhà quận Tư, và trả lời chậm rãi: “Tôi là người Sài Gòn. Không phải từ thuở lọt lòng mà từ lúc bắt đầu biết thương”.
Lê Hoài Việt















