Tìm về bản sắc Ơ Đu

Bản sắc dân tộc Ơ Đu là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết về cộng đồng Ơ Đu, nhưng nó không phải là bất biến. Từ nhiều năm nay, người ta xem xét bản sắc dân tộc Ơ Đu dựa chủ yếu bằng các tiêu chí phân định tộc người và đi đến nhận định rằng người Ơ Đu không còn giữ được bản sắc. Tuy nhiên, cách nhìn nhận như vậy chưa thật sự xác đáng, nhất là trong bối cảnh một cộng đồng nhỏ như người Ơ Đu đã sinh sống rải rác bên cạnh các cộng đồng lớn hơn như Thái, Khơ Mú.

Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu luôn nỗ lực cố gắng tiếp cận người Ơ Đu nhằm tìm hiểu rõ hơn về bản sắc cộng đồng. Đó là nỗ lực khám phá Ơ Đu dựa trên những đặc trưng văn hóa của riêng họ. Hướng tiếp cận này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các tiêu chí trong phân định thành phần tộc người ở Việt Nam vốn là quan điểm chủ đạo trong nửa sau thế kỷ XX với nhiệm vụ xác định thành phần dân tộc. Bản sắc tộc người, do vậy được xác định dựa vào các tiêu chí quan trọng như ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Dưới sự ảnh hưởng từ quan điểm chủ đạo đó, người ta cố gắng tìm những nét riêng biệt của người Ơ Đu từ những cái nhìn khu biệt, tách họ ra khỏi bối cảnh sống phức tạp của họ. Từ đây, người ta hình dung về một cộng đồng Ơ Đu với những làng bản riêng biệt, nhà quay vào núi, các sinh hoạt văn hóa riêng với lễ cúng tiếng sấm đầu năm đặc trưng hay những phong tục tập quán riêng của họ. Tóm lại là cố gắng làm cho người Ơ Đu đặc trưng hơn, khác với các tộc người khác bên cạnh, để chứng minh họ là một tộc người riêng có bản sắc riêng…

Khôi phục nghê thủ công, dạy tiếng Ơ Đu, tập huấn bảo tồn di sản… là những nỗ lực của Nhà nước và người dân trong quá trình gìn giữ bản sắc dân tộc Ơ Đu

Trong khi các nhà nghiên cứu nỗ lực xác định bản sắc của cộng đồng Ơ Đu thì các nhà quản lý cũng với quan điểm tương đồng lại cho rằng bản sắc văn hóa Ơ Đu đã bị mai một và phải tìm hiểu để khôi phục lại. Bắt đầu từ ngôn ngữ rồi đến các sinh hoạt văn hóa đặc trưng. Hầu như khi nói đến cộng đồng Ơ Đu, các nhà quản lý đều cho rằng họ đã không còn bản sắc hoặc bản sắc đã bị mai một gần hết và khó có khả năng phục hồi. Cả vấn đề nghiên cứu lẫn quản lý đều dựa vào quan điểm về một bản sắc Ơ Đu cứng nhắc, từng tồn tại trong quá khứ và không hay ít thay đổi. Bản sắc được hiểu như một đặc trưng riêng để định danh cộng đồng và sẽ không thay đổi qua các giai đoạn khác nhau. Thay đổi nghĩa là đã mất bản sắc. Điều quan trọng là chúng ta quan niệm thế nào về khái niệm bản sắc. Trước đây, nhiều người vẫn cho rằng bản sắc văn hóa của một cộng đồng là những đặc trưng văn hóa tiêu biểu và không thay đổi qua các thế hệ khác nhau. Bản sắc đó giúp người ta nhận diện và phân biệt cộng đồng đó với cộng đồng khác. Điều này có thể không sai nhưng chưa phù hợp bởi không có cộng đồng nào đứng yên một chỗ trong dòng chảy lịch sử. Bản sắc là những đặc trưng văn hóa tiêu biểu và ổn định nhưng đó là một cách nhìn tĩnh tại, trong một khoảng thời gian nhất định, nghĩa là một lát cắt đồng đại. Còn theo chiều lịch sử, qua các giai đoạn khác nhau thì bản sắc cũng có sự thay đổi. Nó thay đổi để phù hợp với bối cảnh lớn hơn cũng như phù hợp với sự biến đổi nội tại của cộng đồng. Thế nên bản sắc là những giá trị văn hóa có tính ổn định nhưng cũng có sự thay đổi qua các giai đoạn và những giá trị đó được người dân trong cộng đồng chấp nhận một cách tích cực. Như vậy, bản sắc là giá trị mà người dân trong cộng đồng chấp nhận quan trọng hơn là ý kiến của những người ngoài cộng đồng.

Người dân bản Văng Môn tham gia tập huấn bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Ơ Đu tại phường Trường Vinh tháng 9/2025

Những cách tiếp cận dựa trên quan điểm cho rằng bản sắc Ơ Đu đã bị mai một và phải tìm cách để khôi phục nguyên bản của nhiều người, một mặt giúp cho người Ơ Đu được tôn trọng hơn với tư cách là một tộc người như những tộc người khác, nhưng mặt khác cũng làm cho sự hiểu biết về người Ơ Đu trở nên xơ cứng, không khám phá được sự năng động của người Ơ Đu qua những giai đoạn và trong những bối cảnh lịch sử xã hội nhất định. Điều đó cũng làm cho những nhận thức về người Ơ Đu trở nên không hợp lý khi gắn với bối cảnh thực tế của họ trong hàng trăm năm từ đầu thế kỷ XXI trở về trước. Vậy nên đòi hỏi phải có những cách nhìn khác để hiểu về Ơ Đu một cách phù hợp hơn. Nếu chúng ta nhìn bản sắc Ơ Đu ở trong một dòng chảy lịch sử với nhiều biến động, thay đổi sẽ tìm thấy bản sắc Ơ Đu ở một góc độ khác và qua đó hiểu về con người Ơ Đu một cách linh động và phù hợp hơn. Họ là những con người năng động và tích cực, thông minh và kiên trì, biết chắt lọc các giá trị văn hóa phù hợp để phát triển trong quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa, chứ không phải bị động và chấp nhận mai một như nhiều người vẫn nghĩ.

Ơ Đu là một cộng đồng đa văn hóa và đa chủ thể. Kiến tạo và bồi đắp cho văn hóa Ơ Đu không thể không kể đến những người Thái, người Khơ Mú là các cộng đồng gắn kết chặt chẽ và lâu năm của họ. Vậy nên những cái nhìn khu biệt Ơ Đu với các mối quan hệ khác sẽ trở nên phiếm diện bởi sẽ làm cho chúng ta không hiểu được bối cảnh xã hội của cộng đồng này cũng như hiểu không đầy đủ về quá trình kiến tạo văn hóa Ơ Đu. Chúng ta cần nhìn bản sắc Ơ Đu trong một môi trường rộng lớn hơn, gắn với bối cảnh xã hội và bối cảnh lịch sử của họ để qua đó nhìn thấy bản sắc Ơ Đu một cách rõ ràng hơn: bản sắc của một cộng đồng văn hóa đa chủ thể.

Phụ nữ bản Văng Môn biểu diễn một tiết mục múa của dân tộc Ơ Đu

Trước hết, từ rất lâu rồi người Ơ Đu không còn một bản riêng biệt. Họ sống thành các nhóm từ 5-7 hộ đến vài ba chục hộ và xen kẽ trong các bản người Thái hoặc người Khơ Mú, cho đến khi tái định cư về bản Văng Môn (xã Nga My, Tương Dương) thì mới có lại một bản riêng. Những “bản của người Ơ Đu” trước đó chỉ được biết đến qua một vài tư liệu truyền miệng là chính, nói về một cộng đồng có vị thế nhưng trải qua nhiều thăng trầm để rồi ly tán ra nhiều nơi. Nhưng những điều đó đã diễn ra trong một quá khứ rất lâu trước đây. Còn thực tế, trải qua mấy thế kỷ rồi, người Ơ Đu là một cộng đồng sống xen kẽ và không tập trung thành các bản riêng biệt nên cơ cấu xã hội cũng có sự riêng biệt. Họ sống trong các bản người Thái hay người Khơ Mú nên chịu lệ thuộc vào các kết cấu xã hội của các cộng đồng này. Việc không có bản riêng nên cơ cấu xã hội và phân chia quyền lực cũng không thật sự rõ ràng. Vậy nên, để hiểu về cơ cấu xã hội của người Ơ Đu thì phải gắn với người Thái, người Khơ Mú-vốn là những chủ làng thật sự ở những nơi người Ơ Đu sinh sống trước đây.

Một yếu tố quan trọng trong tiêu chí tộc người là ngôn ngữ, thì ngôn ngữ Ơ Đu cũng đã bị mai một và mất vai trò trong đời sống thường nhật. Hệ từ vựng của người Ơ Đu bị mất đi qua nhiều thế hệ và đến nay chỉ khôi phục lại được một số từ vựng cơ bản nhưng cũng ít khi được người dân sử dụng. Trước đây một thời gian, người Ơ Đu nói tiếng Thái và tiếng Khơ Mú là chủ yếu. Hiện tại, người Ơ Đu nói đến 3 thứ ngôn ngữ khác nhau là tiếng Thái, tiếng Khơ Mú và tiếng Kinh. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp để hiểu nhau. Và khi họ giao tiếp được các ngôn ngữ khác thì cơ hội để khôi phục lại ngôn ngữ tộc người mình càng thêm nhỏ đi. Đặc biệt là nhu cầu giao tiếp với các cộng đồng khác của người Ơ Đu cao hơn bởi họ sống trong các bản người Thái và bản người Khơ Mú nên họ cần giao tiếp với các cộng đồng này nhiều hơn, và hầu hết người Ơ Đu đều biết tiếng Thái và tiếng Khơ Mú nên tiếng Ơ Đu mất dần như là một hệ quả của quá trình tiếp xúc văn hóa.

Những người phụ nữ bản Văng Môn trong trang phục Ơ Đu truyền thống

Quan trọng nhất, người Ơ Đu thực hiện nghiêm chỉnh quy tắc ngoại tộc hôn. Do chỉ có một dòng họ là họ Lo nên người Ơ Đu không kết hôn với nhau. Trong chiều dài lịch sử, vì thực hiện ngoại tộc hôn nên người Ơ Đu kết hôn với người Thái và người Khơ Mú là chủ yếu (hiện tại có 3 cặp vợ chồng người Ơ Đu kết hôn với nhau khi họ tiếp nhận quan điểm sau hơn 5 đời thì sẽ không còn quan hệ cận huyết). Quan hệ hôn nhân là nhân tố quan trọng trong việc kiến tạo bản sắc văn hóa. Qua quan hệ hôn nhân, người Ơ Đu tiếp nhận các yếu tố văn hóa Thái, Khơ Mú để làm giàu thêm bản sắc văn hóa truyền thống của mình. Điều đó thể hiện ở khía cạnh họ tiếp nhận các nghề thủ công truyền thống của người Thái, các kinh nghiệm làm nương rẫy của người Khơ Mú, các phong tục tập quán và các nghi lễ trong văn hóa Thái và Khơ Mú để làm phong phú thêm nền văn hóa Ơ Đu. Mặt khác, những người phụ nữ Ơ Đu khi về làm dâu người Thái, người Khơ Mú cũng đưa một số yếu tố văn hóa truyền thống của tộc người mình vào đời sống văn hóa gia đình làm cho văn hóa Ơ Đu có thêm sức sống.

Như vậy, khi tìm hiểu về bản sắc văn hóa của người Ơ Đu thì cần phải đặt họ trong bối cảnh đa văn hóa, đa chủ thể. Không thể tách biệt bản sắc văn hóa Ơ Đu một cách tuyệt đối và máy móc bởi nó hòa quyện với văn hóa Thái và văn hóa Khơ Mú. Đây không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận văn hóa của một cồng đồng đối với một cộng đồng khác mà là quá trình cùng nhau kiến tạo văn hóa bởi trong gia đình Ơ Đu nào cũng có người Thái hay người Khơ Mú sinh sống hoặc cả ba cộng đồng cùng sinh sống trong một không gian văn hóa. Và trải qua nhiều thế hệ như vậy mà văn hóa Ơ Đu trở thành nền văn hóa đa bản sắc từ đa chủ thể.

Trang Tuệ