Sống chung với lũ

Xóm bờ sông sống chung với lũ. Ảnh: Lý Uyên

Người đời sợ lũ, nhưng với người quê tôi – những cư dân sống bám vào đất bãi ven sông Lam, thì lũ không chỉ là họa, mà còn là sự cân bằng của thiên nhiên. Lũ về kéo theo nước bạc, nhưng cũng mang theo phù sa vun bồi cho ruộng đồng thêm mỡ màng. Lũ làm sập nhà, ngập ngụa cả làng xóm, nhưng rồi cũng quét sạch chuột bọ, sâu bệnh, dọn sạch bùn đất và những điều mục ruỗng. Lũ khiến người ta sợ hãi, nhưng cũng dạy người ta trưởng thành. Lũ làm người ta thấy mình nhỏ bé, cô đơn, nhưng cũng khiến ta kiên cường, cố kết tình làng xóm, đoàn kết hơn.

Sống chung với lũ – nghe tưởng như cam chịu, nhưng thực ra là một cách sống đầy trí khôn và lòng can trường, đầy bản năng và khéo léo. Là chấp nhận nghịch cảnh, rồi hóa giải nó bằng bàn tay, bằng kinh nghiệm, bằng cả tấm lòng chắt chiu của những con người sống giữa thiên nhiên dữ dội nhưng chan chứa tình người.

Tôi sinh ra trên dải đất ven sông Lam – nơi bố tôi thường gọi là “oi nước”, còn văn chương gọi là “rốn lũ”. Mỗi mùa lũ về, nước như muốn nuốt trọn cả xóm làng. Ở đó, chị em tôi lớn lên giữa những trận mưa dầm dề, giữa tiếng nước réo ào ào cuốn theo phù sa và rác rưởi, giữa tiếng mẹ ho, tiếng bố thở dài, và cả khi ông say rượu, chửi đổng trời đất, chửi cả vợ con mỗi khi con nước tràn về. Hình như ông cũng đầy sợ hãi và bất lực. Chính vì thế, từ bé, tôi đã tìm cách “khắc chế” bố và nương vào thiên nhiên, chủ động vào nó, để không bị sợ như bố.

Lũ đến, đứa trẻ con như tôi, người dân quê tôi, không khóc than, cũng không ngồi chờ vận may. Chúng tôi sống chung với lũ – theo đúng nghĩa đen và cả nghĩa bóng. Là gồng mình chống đỡ, cũng có khi là thả lỏng học cách thích nghi, xoay xở trong từng khe hở của gian nan.

Xóm bờ sông sống chung với lũ. Ảnh: Lý Uyên

Tôi là đứa trẻ ương bướng, từ cấp hai đã biết lo toan chuyện nhà. Mỗi mùa lũ về, tôi lo từ chuyện chặt tre phơi khô, chặt chuối làm bè, đan lồng gà bằng nứa, đến cả chuẩn bị củi nấu ăn, nước uống cho cả tháng trời.

Chuồng gà ngày lũ phải làm bằng nứa – thứ nhẹ, bền, khiêng dễ, nổi được. Gà được nhốt từng chuồng nhỏ, mỗi chuồng chỉ độ chục con để dễ bê, dễ thả lên thuyền khi nước ngập đến sân. Gà con thì được nhốt vào bu – một loại lồng tròn bằng tre, nhẹ tênh, có thể cột chặt vào mái nhà. Chuồng gà, chuồng chó, mèo… đều buộc chặt cố định lên bè. Bè khi làm xong thì làm mái. Mái bè làm như mái nhà đủ che mưa và để nước trôi tuột xuống. Nhưng phải thấp, chắc chắn để không bị gió giật tung.

Tre, nứa, lạt buộc – tất cả đã được chuẩn bị từ mùa hè: chặt sẵn, ngâm bùn cho dai rồi phơi lên chái bếp, đầy mồ hóng (bụi tro bếp). Củi cũng phải là củi khô, suôn, được chặt nhỏ như ngón tay, dài tầm hai gang, xếp buộc thành từng bó. Mỗi bó đủ để nấu được một nồi cơm. Bếp mùa lũ chỉ đơn giản là hai cục gạch lớn kê hai thanh sắt, một chiếc chậu nhôm to. Lửa bập bùng trong chậu sắt, nhôm để giữa gian nhà gỗ, khói bám đầy vách nứa, bám vào ký ức tuổi thơ.

Nước sinh hoạt được cho vào túi nilon, rồi bỏ vào thùng phuy. Thùng phuy treo trên mái nhà, néo chặt bằng dây rút. Nước lên đến đâu, kéo phuy lên cao đến đó. Có khi treo đong đưa cả tháng mà vẫn sạch, vẫn đủ để ăn uống. Phèn chua được mua từ trước, bỏ vào chum để làm trong nước tắm, nước giặt.

Lũ về, cơm gạo trắng thơm, món ăn là nhút mít chua, cà pháo muối, giá muối… xào xíu mỡ lợn, lạc rang mặn, rau muống vượt ngọn hái từ ao lên, khế chua sau vườn, măng luộc chấm muối vừng… Những ngày nước ngập đến ngực, tôi và lũ bạn lại chèo bè, thuyền đi câu cá, bắt cua, có khi trúng cả con cá mè, cá chép nặng đến vài cân mắc vào lưới. Có hôm nước lớn, cá theo dòng tràn vào ruộng, bố tôi vác nhủi, nơm ra mà bắt đầy một giỏ. Có khi kéo những cành tre, rơm… làm bẫy lươn… lươn vào trú rồi nước rút quên ra, giữ lấy mà bắt.

Có nỗi lo lũ, nhưng cũng có niềm vui lũ. Người lớn cực, nhưng trẻ con thì háo hức. Bè chuối trở thành thuyền dạo quanh xóm. Những buổi tối mất điện, cả nhà quây bên bếp lửa, ghép thuyền lại bà kể chuyện ma, nghe ông kể chuyện năm lụt to nước ngập mái đình. Cái nghèo không dập tắt tiếng cười. Ngược lại, nó dạy cho người ta biết sẻ chia, biết quý từng củ khoai, từng bữa rau cháo.

Có khi ngứa ăn chân đêm gãi rồn rột, nhưng ngày hở ra là lội nước, chèo thuyền đi bắt cá. Bão lũ lại mất mát – nhưng dân quê tôi chủ động, nên rất hiếm khi bị mất trâu bò trôi theo dòng nước, chỉ có bão tốc mái nhà, lúa ngoài đồng chưa đến kỳ gặt là phải chịu mất, giếng đầy bùn phù sa. Nhưng cũng chính phù sa đó lại làm cây cối tốt tươi hơn vào vụ mùa sau.

Bố tôi vẫn thường lẩm bẩm “tái ông mất mã”. Năm sau trái to hơn, năm sau đỡ sâu và chuột hơn, vì lũ to chúng chết bớt. Nhà đỡ bị mối mọt. Mà quả đúng vậy, những ngôi nhà vùng lũ, không khi nào bị mối. Lũ cũng dạy người ta kiên cường hơn, vững chãi hơn và nhanh nhạy hơn. Khi có điều kiện hơn, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân ven dòng Lam bắt đầu xây nhà chống lũ. Mái tranh được thay bằng mái tôn vững chãi, có cầu thang thoải cho trâu bò lên gác, gác xép để trữ đồ, có thuyền gỗ máy để phòng thân. Cuộc sống không còn mong manh như xưa, nhưng cái cách sống đậm đà nghĩa tình trong cơn hoạn nạn vẫn còn nguyên vẹn. Họ vẫn chia nhau từng bát canh cua, từng đĩa nhút xào, từng thìa muối vừng trong những ngày lũ.

Bây giờ, tôi đã lớn, xa quê đi học, đi làm. Nhưng mỗi độ thu về, mưa dầm dề dọc miền Trung, tôi lại nhớ quê – nhớ mùa nước lũ, nhớ tiếng mẹ ho trên chạn, lúc nước gần lút mái, nhớ bữa cơm rau muống chấm tương, cá trong lũ kho cà, nhút xào tóp mỡ,… đơn sơ mà ngon đến lạ lùng.

Sống chung với lũ – không chỉ là cách chống chọi với thiên nhiên. Đó còn là một bài học làm người, là sự khôn ngoan, dẻo dai của người xứ Nghệ – những con người kiên cường như bãi bồi bên dòng Lam, ngửa mặt nhìn nước xiết mà lòng vẫn an nhiên, bình thản.

Mai Hoàng