Sau những trang sách của đại tá tình báo Tư Cang

Nhà văn Nguyễn Văn Tàu - Tư Cang và các cuốn sách của ông

Viết văn bằng giọng văn thật thà, giản dị, mộc mạc, những trang văn của anh hùng Tư Cang không cuốn hút độc giả bằng ngôn từ, nghệ thuật mà bằng sức hấp dẫn của những câu chuyện ông đã gặp, đã sống. Sau những trang văn của ông là bóng dáng của một thế hệ sẵn sàng đổ máu vì Tổ quốc được nhìn bởi góc nhìn đầy thân thương, mộc mạc và nhân văn, khiến chúng ta dễ liên tưởng tới những câu thơ nổi tiếng “Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” của nhà thơ Nguyễn Đình Thi.

Nhà văn Nguyễn Văn Tàu – Tư Cang và các cuốn sách của ông

“Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”

“Nhớ lại buổi tiễn biệt cạnh bụi chuối sau nhà, những cái hôn tràn nước mắt của đôi vợ chồng trẻ, những lời hứa hẹn, những ước mơ hạnh phúc trong ngày gặp lại. Sau gần 30 năm chiến đấu, đêm nay, hạnh phúc đã đến thật sự trong vòng tay đây rồi mà cứ tưởng như một giấc mơ” – Những kỷ niệm khắc sâu trong đời được nhà văn Nguyễn Văn Tàu (tức đại tá Tư Cang), hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh viết trong cuốn sách Nước mắt ngày gặp mặt – hồi kí, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh vừa tái bản nhân dịp 50 năm ngày Thống nhất đất nước. Cùng tái bản cuốn sách ý nghĩa này còn có Những điệp viên may mắn (NXB Trẻ), tác phẩm ông viết về những đồng đội cụm tình báo H.63 và những chiến sĩ từng vào sinh ra tử có cơ hội trở về sau chiến tranh. Đây là hai trong nhiều cuốn sách được nhiều thế hệ độc giả tìm đọc của nguyên cụm trưởng cụm tình báo H.63 – cụm tình báo xuất sắc từng lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống Mỹ, góp phần quan trọng trong ý nghĩa của chiến dịch Mậu Thân 1968 và sự thành công của chiến dịch Hồ Chí Minh.

Những cuốn sách của ông, bên cạnh tư liệu có giá trị lịch sử còn là tiếng lòng của một người anh hùng không quản ngại, sẵn sàng hi sinh xương máu vì Tổ quốc. Nhiều nhà văn, nhà thơ viết và trưởng thành từ trong kháng chiến, còn với nhà văn Nguyễn Văn Tàu – Tư Cang, dù tập viết văn từ khi tập kết ra Bắc nhưng những nhiệm vụ trọng trách trong chiến tranh đòi hỏi sự tập trung tối đa, phải khá lâu sau những ngày cầm súng ông mới có thể cầm bút trở thành nhà văn.

Nhắc lại cơ duyên đầu tiên đến với văn chương, đại tá Tư Cang chia sẻ: Sau chiến tranh, có một thời gian gia đình nghèo khó, hai vợ chồng không biết làm gì nên nuôi heo nái bán heo con để sinh sống. Bảy Thanh (một người em từng chiến đấu chung, về sau làm lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh) về thăm, nhìn cảnh vợ chồng nuôi heo cực khổ nên thương cảm hỏi: Sao nghèo quá vậy anh Tư? Tôi thật thà nói: Giờ tao biết làm gì đâu, mày có gì trong thanh niên cho tao làm với?

Bảy Thanh là người viết giấy bổ nhiệm Tư Cang làm tổ trưởng tổ bột giấy của Lực lượng Thanh niên xung phong TP. Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Nhờ giấy này ông mới đi qua được Bù Đốp, Bù Gia Mập, cách TP. Hồ Chí Minh gần 200km để đốn tre, chặt nhỏ, ngâm xút bán cho nhà máy giấy, kiếm sống được đáng kể hơn việc vất vả nuôi heo. Nhưng do vào rừng nhiều, mắc mưa nhiều nên cảm nặng, cùng với việc sa sút sức khỏe sau nhiều năm xông pha chiến trận, đại tá Tư Cang phải nằm quân y một thời gian khá lâu. Chính thời gian này khiến ông suy nghĩ nghiêm túc việc cần ghi lại những tháng ngày đã qua của mình và anh em, và những ân tình, hi sinh của những gia đình người dân tốt bụng đã che chở mình trong kháng chiến.

“Ví dụ như ba của Tám Thảo (đồng đội chung cụm tình báo H.63, đã được phong Anh hùng LLVT) nói một câu tôi không thể quên được: Ba biết con vô đây là làm cách mạng. Nói thật với con, vốn ba hiện nay là ba mươi sáu triệu (mà vàng lúc đó chỉ 3.000 đồng/ lượng). Ba biết rằng nếu tụi nó bắt con trong nhà thì gia đình tiêu tan hết. Nhưng con cứ yên tâm làm việc, dắt dẫn các em đi theo cách mạng. Ba tin cách mạng thành công và ba thương các con” – Tư Cang kể.

Những trang viết là tư liệu quý

Luôn tự nhận mình không phải nhà văn chuyên nghiệp, chỉ viết về những điều đã gặp, đã làm nhưng nhiều cuốn sách của nhà văn Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) được không chỉ thế hệ đã đi qua chiến tranh mà cả nhiều bạn trẻ hiện nay tìm đọc. Ngồn ngộn tư liệu quý của một người xông pha trận mạc cùng bao đồng đội của mình đã là vốn quý để ông tình cờ trở thành nhà văn.

Ít ai biết, Tư Cang tập viết từ ngày còn đi tập kết ra Bắc. Tác phẩm đầu tiên là Dòng sông Soài Rạp (tên con sông ở Nhà Bè có nhiều kỷ niệm). Chính niềm vui khi ghi lại, chia sẻ được những kỷ niệm đã qua khiến Tư Cang nghĩ: Mình đã trải qua bao nhiêu chuyện sao lại không thể viết được? Và ông tranh thủ tự mình tập viết vào những lúc rảnh rỗi ban ngày, tối về đọc cho câu lạc bộ đại đội của mình nghe. “Lần đầu đọc xong ngó xuống thấy anh em lần lần đi về hết, nghĩa là viết chưa đạt. Về sau sửa đi sửa lại 4,5 lần, gửi dự thi một cuộc thi viết ở Hà Nội, được chấm giải khuyến khích, được phát 7 đồng. Một đồng bạc từ Sơn Tây thời điểm đó mang ra Hà Nội ăn cơm uống rượu thoải mái xong chúng tôi vẫn còn dư 1,2 hào mang về. Một đồng bạc hồi đó quý lắm.” – Ông bật cười chia sẻ kỷ niệm thuở ban đầu cầm bút của mình.

Năm 1988, đại tá tình báo nổi tiếng “hai tay hai súng bắn giỏi như nhau” mới có cuốn sách đầu tiên – Sài Gòn Mậu Thân 1968 – tác phẩm viết nhân dịp 20 năm Mậu Thân. Đó là thời điểm mọi người vẫn tranh luận khá nhiều về câu chuyện Mậu Thân. “Nhiều người cho rằng chiến dịch đó là sai lầm vì chết nhiều quá, là người từng tham gia chiến dịch, tôi tức mình viết về Mậu Thân 68, về chính câu chuyện của những người trong cuộc. Chiến dịch Mậu Thân là thời gian chúng tôi đã cùng chiến đấu không tiếc máu xương, đồng đội của tôi hi sinh gần hết, ngay trong lòng Sài Gòn. Mục đích viết của tôi lúc ấy, đơn giản chỉ để giải thích những lợi ích của Mậu Thân, để phản bác những ý kiến cho rằng đó là sai lầm, bởi suy nghĩ ấy không đúng và vô ơn với xương máu của những người đã hi sinh” – nhà văn Nguyễn Văn Tàu chia sẻ về tác phẩm của mình.

Sau khi ra mắt, tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Tàu được xem là tư liệu quý để tìm hiểu về Mậu Thân 1968, giúp khẳng định vai trò, ý nghĩa đúng đắn của cuộc tổng tiến công này. Không chỉ giúp mọi người hiểu sâu sắc hơn về Mậu Thân 1968, cuốn sách còn giúp mọi người nhìn ra tố chất nhà văn của Tư Cang. Sau khi đọc biên tập cuốn Sài Gòn Mậu Thân năm 1968, ông Hà Mộng Nhai, Giám đốc NXB Văn hóa văn nghệ thời điểm đó đã xúc động đề nghị tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh

Cho đến tận bây giờ, sau hàng chục năm cầm bút, ra mắt gần 10 đầu sách, nhà văn Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) vẫn cho rằng, bản thân ông không nghĩ mình viết hay. Ông chỉ viết sự thật, và chính những câu chuyện chiến đấu đã khiến nhiều người quan tâm, xúc động, ý nghĩa.

Khôi Nguyên Thảo

Nhà văn Nguyễn Văn Tàu – Tư Cang và tác giả bài viết

Nhà văn Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Cụm trưởng Cụm tình báo H.63, biệt động Sài Gòn. Ông sinh năm 1928 tại Bà Rịa Vũng Tàu, đi kháng chiến chống Pháp từ 1945. Bằng thực tế chiến đấu dữ dội đã trải qua, ông đã viết nhiều tác phẩm giá trị: Sài Gòn Mậu Thân 1968, Tình báo kể chuyện, Nước mắt ngày gặp mặt, Trái tim người lính, Bến Dược vùng đất lửa, tiểu thuyết Hoàng hôn trên chiến trường… Nhân kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước, hai tác phẩm của ông: Nước mắt ngày gặp mặt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh) và Những điệp viên may mắn (NXB Trẻ) vừa được tái bản, được xem là tư liệu quý dành cho độc giả muốn ngược dòng lịch sử, đọc để hiểu hơn về những ngày tháng khốc liệt, anh hùng.

Năm 1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy Cụm H.63, cụm tình báo hỗ trợ cho Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn, điệp viên nằm sâu trong lòng địch). Sau chiến tranh, “bộ máy” H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng (với những điệp viên tiêu biểu: Tư Cang, Hai Trung, Tám Thảo, Mười Nho, Nguyễn Thị Ba…). Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, ông được nhận nhiệm vụ chỉ điểm những vị trí đóng quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở trong thành phố Sài Gòn cho Quân đoàn 3, phòng trường hợp chính quyền Dương Văn Minh không đầu hàng Quân Giải phóng thì sẽ pháo kích, đánh chiếm từng đường phố trong thành phố. Ông là Chính ủy Lữ đoàn 316 đặc công biệt động, đơn vị tấn công, đánh giữ cầu Rạch Chiếc cho 2 trong 5 cánh quân giải phóng tiến về Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.