Thế là tôi cũng đến được xóm 7, xã Quỳnh Liên, huyện Quỳnh Lưu cũ (nay là phường Quỳnh Mai, tỉnh Nghệ An) nơi những người làng tôi đi nạo vét kênh Nhà Lê tập kết. Sau hơn nửa ngày cuốc bộ với nào quang gánh, dụng cụ nạo vét đất bùn, nào gạo, thức ăn trên vai, đến nơi ai cũng mệt rã rời. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi phải đi xa như thế. Hôm tập trung tại trụ sở xã nghe phổ biến kế hoạch trước khi đi, anh Tuyến, đội trưởng (người làng tôi) cũng chỉ thông báo miệng địa điểm, quãng đường ước chừng bao nhiêu cây số, chứ hồi đó chưa có bản đồ để hình dung.
Khi đó, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc đã hơn một năm, kể từ ngày 5/8/1964. Ngoài trường học, bệnh viện, kho xăng dầu, cơ sở quân sự, chúng tập trung phá hoại các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, cầu phà, bến bãi,… nhằm ngăn chặn việc vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến trường miền Nam. Các phương tiện vận tải phải hoạt động chủ yếu vào ban đêm, ô tô chạy trên quốc lộ chỉ bật đèn gầm. Trên đường, cách vài ba cây số lại có một trạm gác, gọi là “trạm gác phòng không”, có ngọn đèn dầu đựng trong hộp kín để ở mép đường, chỉ chừa một lỗ nhỏ cho ánh sáng lọt ra ngoài để người lái xe từ xa nhìn thấy, khi nào người gác nghe tiếng tàu bay thì xoay đèn vào trong báo hiệu cho các tài xế dừng xe lại. Đường ô tô đi qua địa phương nào thì dân quân, thanh niên địa phương đó chịu trách nhiệm lập “trạm gác phòng không”. Học sinh cấp 3 chúng tôi, vừa là thanh niên và cũng tham gia dân quân, ngày đi học, đêm về trực ở các “trạm gác phòng không”; ngày nghỉ, Chủ nhật tham gia trực bắn tàu bay Mỹ.

Để tăng thêm các tuyến và các phương tiện vận tải, Nhà nước chủ trương khôi phục lại tuyến đường thủy kênh Nhà Lê, được xây dựng cách nay hơn 1000 năm, từ thời Vua Lê Đại Hành, có chiều dài khoảng 500km, kéo dài từ Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) đến Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Do kênh nhiều đoạn đã bị bồi lấp, cấp trên chỉ đạo thực hiện đợt nạo vét quy mô trên toàn tuyến, huy động sức người sức của, đặc biệt là nhân dân các vùng có tuyến kênh đi qua.
Tôi xung phong đi dân công nạo vét kênh nhà Lê ngay đợt đầu của xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành nay là xã Hợp Minh, tỉnh Nghệ An. Tết Nguyên đán đã cận kề, mẹ tôi mất lúc tôi mới 9 tuổi, anh trai đầu đã đi công nhân lâm nghiệp mấy năm nay, nếu tôi đi, Tết chỉ còn cha và 2 em gái nhỏ. Thấy tôi hăng hái và quyết tâm nhưng còn là học trò “non choẹt” mới hết học kỳ I lớp 10 (hệ 10 năm), đang chuẩn bị nghỉ Tết Nguyên đán lại đi bộ xa hơn 5-6 chục cây số, mãi tận huyện Quỳnh Lưu (cũ), cha tôi tuy không can ngăn nhưng rất ái ngại, lo lắng. Đoán được điều đó, tôi nói: “Làng ta đi đông lắm cha ạ, 20 người, có cả Hòa Ngợi (Đào Quang Hòa) cùng xóm, đang học lớp 9, rồi anh Khoa Dần, o Thơi Cẩn, o Nhật Rộc, o Huệ Đá, o Thanh Nhữ, chú Quyền Thắm, anh Thanh Quyện…”. Hôm ra đi, cha và em gái tôi dậy sớm, nấu nồi cơm độn khoai lang như thường lệ. Khi ăn, cha chọn khoai ăn, chừa lại cơm rồi lấy mo cau đã rửa sạch gói cho tôi một mo cơm bằng 2 nắm tay và không quên đùm ít vừng đen trong mảnh lá chuối bỏ vào, dặn: “Cơm trưa dọc đường đấy, khi nào đói thì anh em giở ra ăn”. Nghe tiếng gà gáy, cha tôi bảo: “Gà đã gáy canh tư, đi được rồi, con sang nhà anh Khoa xem đã xong chưa”. Do thời chiến, để tránh tàu bay Mỹ, không tập trung đi theo đoàn, chúng tôi tự kết nhóm 2 đến 3 người để đi cùng nhau. Mỗi nhóm tự quyết định giờ đi, miễn sao ngày mai bắt đầu công việc. Vì đã hẹn trước, tôi chạy sang nhà anh Khoa, thấy quang gánh của anh đã tươm tất. Dượng, dì, anh Khoa cũng đã dậy. Dì dặn: “Bọn bây đi, anh em nhớ thương chắc (thương nhau), trông chừng tàu bay”. Rồi dì nói tiếp: “Hai lô thịt lợn dì ướp mói (muối) từ hôm qua, bọc trong mo cau, không sợ hư mô”. (Chúng tôi đi dân công, được xã cấp 2 lô thịt lợn cho cả 20 người trong thời gian 7 ngày và gạo 0,5kg/người/ngày, ngoài ra mỗi người chúng tôi tự rang một chai muối trộn ít thịt để làm thức ăn).
Anh Khoa và tôi cùng xóm, cùng đội sản xuất, lớn lên cũng chỉ quanh quẩn trong làng, trong xã, xa nhất cũng chỉ biết con đường sang huyện đi học cấp 3. Vì không biết đường tắt, nên 2 anh em cứ theo QL7, xuống ngã ba Phủ Diễn, theo QL1 ra Yên Lý. Đến Yên Lý, chúng tôi đi theo bờ nông giang dẫn nước từ Bara Đô Lương qua Yên Thành, Diễn Châu xuống Quỳnh Lưu, đoạn đường nào có ngã rẽ chúng tôi hỏi người dân địa phương. Vừa qua Yên Lý vài trăm mét, bỗng nghe những tiếng rít “đinh tai, nhức óc” đến từ phía biển, ngay sát trên đầu, theo phản xạ, chúng tôi quăng quang gánh và nằm rạp xuống mép bờ sông, úp mặt xuống đất. Đợi khi biết ngã ba Yên Lý không phải là mục tiêu ném bom của chúng và khi chỉ còn nghe tiếng gầm rú xa của bọn “quạ đen” Mỹ, 2 anh em đứng dậy thì thấy một tốp 3 chiếc tàu bay phản lực xịt khói đen đang bay về phía Bara Đô Lương. Mấy giây sau, tiếng pháo cao xạ của bộ đội ta bắn trả lẫn trong tiếng bom chúng thả ùng oàng, từng đụn khói đen bốc lên phủ kín bầu trời phía tây.

Qua xã Diễn Trường (nay là xã Hùng Châu, tỉnh Nghệ An), đến đất Quỳnh Diễn (nay là xã Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), chân chúng tôi đã mỏi. Khát nước, chúng tôi vào nhà dân xin, vục chiếc gáo dừa vào chum nước mưa có đậy chiếc nón bên cạnh góc bếp, “tu” đủ no rồi lại lên đường theo chỉ dẫn của chủ nhà. Mấy lần thấy tôi tụt lại phía sau, tuy đã gánh hơn tôi 2 lô thịt nhưng anh Khoa bảo: “Mi đưa bao gạo đây tao gánh cho”. Tôi ái ngại bảo:
– Anh nặng hơn tui rồi mà.
– Không sao, tao chịu được, mi là học trò, yếu hơn tao.
Anh Khoa nhiều hơn tôi 1 tuổi, mẹ anh và mẹ tôi là chị em con dì trong họ. Hàng ngày, buổi sáng đi học trường huyện, buổi chiều tôi về đi làm đồng cùng anh với bà con trong đội sản xuất, hoặc cùng nhau viết khẩu hiệu ở các bờ tường ven đường ao Rộc Cửa, buổi tối trèo lên chòi cây trôi xóm Trại để loa cho bà con biết ngày hôm đó tàu bay Mỹ bắn phá những đâu và ta bắn rơi bao nhiêu chiếc,… nên hai anh em rất gần gũi, thân thiết. Chưa đến Quỳnh Đôi trời đã tối, chúng tôi lầm lũi đi trong đêm, đến nơi tập kết thì đã muộn và mọi người đều đang chờ 2 lô thịt từ chúng tôi để làm thức ăn.
Sau bữa tối, anh Tuyển Đội trưởng thông báo trước toàn đội: “Một, chúng ta làm việc phụ thuộc vào thủy triều. Theo địa phương cho biết, thủy triều rút có thể là giữa trưa, đầu chiều, 11- 12 giờ đêm hoặc 2 hay 3 giờ sáng. Do đó, bất kể giờ nào, khi nghe tiếng kẻng, toàn đội tập trung tại nhà bác Hùng, nơi tôi ở, với đầy đủ dụng cụ xẻng, mai, rổ và quang gánh. Hai, địa phương đã bố trí cho chúng ta ở mỗi nhà từ 2 đến 3 người, rải rác trong xóm, tránh tập trung đông người. Bếp ăn đặt tại nhà tôi ở và khi chuẩn bị ăn sẽ có kẻng báo. Ba, sắp Tết Nguyên đán, tránh làm những việc ảnh hưởng đến thờ cúng của gia đình.”
Tôi, anh Khoa, anh Thành ở nhà bà Hường. Tối đó, do quá muộn, không muốn làm thức giấc các gia đình, một số anh chị em mượn nống phơi lúa, trải ra sân và ngủ lại cùng chúng tôi tại nhà bà Hường, trai gái vô tư nằm chung một nống. Đêm không mưa, gió biển thổi làm mắt chúng tôi như bị gắn nhựa bẫy chim, khép lại không cưỡng nổi và thiếp đi lúc nào không rõ, chẳng biết trời, đất, tàu bay là gì nữa.
Hôm sau, đang chìm vào giấc ngủ sau bữa trưa thì nghe tiếng gọi: “Dậy đi làm, thủy triều rút rồi!” Mọi người “mắt nhắm, mắt mở” chạy tới nhà bác Hùng tập trung với đầy đủ dụng cụ theo đội trưởng ra bờ kênh. Từ nhà trọ ra tới kênh cũng khá gần, đi một loáng là đến nơi, chúng tôi đoán chỉ chừng vài trăm mét. Theo như anh Tuyển cho biết, kênh Nhà Lê chảy qua Quỳnh Lưu dài hơn chục cây số, nối từ sông Hoàng Mai, đi qua nhiều xã, từ Quỳnh Phương ở phía bắc, qua Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Đôi, Quỳnh Nghĩa đến Quỳnh Hải, Quỳnh Thuận và đổ ra biển tại cửa Lạch Quèn ở phía nam.
Đơn vị chúng tôi thi công đoạn có chiều dài 100m tại xã Quỳnh Liên trong thời gian 1 tuần, phía trên và phía dưới là của các đơn vị khác. Kênh có hai bên bờ tràn, thấp, rải rác có những lùm cây cao quá đầu người, bề rộng từ 10-15m. Thời điểm nước ròng, lòng kênh chỉ còn 4-5m. Khi chúng tôi lội xuống giữa lòng kênh, nước chỉ đến ngang thắt lưng, kể cả bùn. Do sự bồi đắp từ rất lâu, lòng kênh nông, tàu thuyền chở 3 – 4 tấn hàng sẽ không đi được, kể cả khi triều cường. Nhiệm vụ của chúng tôi là lấy bùn đất dưới đáy kênh, làm sâu lòng kênh thêm ít nhất cũng được 30 – 50cm, có nơi phải lấy sâu đến gần 60cm và mở rộng ra 2 bên bờ để kênh rộng hơn và khi thủy triều lên đạt mức nước 1,2-1,5m, đảm bảo cho các loại thuyền có trọng tải trên 10 tấn đi lại thông suốt. Theo sự phân công, chúng tôi đứng thành dây (hàng), mỗi dây từ 4 đến 5 người, mỗi người cách nhau 70-80cm, để có thể chuyền rổ bùn từ người này qua người khác mà không phải di chuyển. Buổi đầu, dây tôi gồm 3 nam thay phiên nhau đứng đầu và 2 nữ đứng cuối. Anh Thành là người đầu tiên đứng đầu dây, có nhiệm vụ dùng xẻng xúc bùn vào rổ, tôi và anh Khoa chuyền tiếp cho hai o đổ bùn lên cách bờ khoảng 1m. Do nước sâu, bùn trơn, anh Thành phải lựa thật khéo mới xúc được xẻng bùn đưa vào rổ. Rổ bùn được vớt lên, sũng nước, chuyền cho người kế tiếp để đưa lên bờ. Chỉ mấy chục phút sau, ai nấy đều ướt như “chuột lụt”. Chúng tôi gần như dầm mình trong nước suốt cả buổi. Trời cuối đông đầu xuân nên còn khá lạnh, gió Đông Bắc thổi ràn rạt, lúc đầu chúng tôi run cầm cập, làm một lúc mới hết run. Rồi chúng tôi “phát huy tính nghịch ngợm” của tuổi trẻ, lấy bùn đen bôi vào mặt, vào người nhau, cười vang cả khúc sông. Phái nữ đội nón lá, cánh đàn ông như tôi đội mũ lá rộng vành (quê tôi gọi là mũ Tràng Kè, vì được làm từ làng đó), thế mà, tranh thủ lúc rổ bùn chưa tới, chúng tôi bôi bùn vào má, vào mũi, vào cằm nhau, rồi cười nắc nẻ… Cuối mỗi buổi làm, mặt mũi người nào cũng lem luốc, trông như diễn hề, nhưng đến là dễ thương. Nghịch vậy, nhưng chúng tôi vẫn cảnh giác, vừa làm, vừa nghe tiếng tàu bay và tiếng kẻng báo động của công trường. Nếu tàu bay ở xa thì vẫn làm việc, đứng im tại chỗ, nếu tàu bay ở gần thì lặng lẽ lên bờ nấp vào bụi cây hoặc ngồi xuống bất động, tàu bay bay khỏi mới tiếp tục công việc. Còn nếu chúng bắn phá thì cố chạy thật nhanh xa khỏi nơi ném bom.

Do phải phụ thuộc vào hoạt động của thủy triều nên những ngày sau đó, chúng tôi đều phải thi công vào ban đêm, tuy trời lạnh nhưng an toàn, tránh được sự “nhòm ngó” của tàu bay Mỹ. Đêm tối như mực, nhờ phản xạ của mặt nước mà chúng tôi vẫn nhìn thấy nhau, những rổ đất bùn vét lên từ lòng kênh vẫn thoăn thoắt, nhịp nhàng được chuyển lên bờ đều đặn mỗi đêm. Có đêm, đang làm thì mưa phùn gió Bấc tràn về, ai cũng bị ướt, vừa rét lạnh, quần áo dính chặt vào người. Chúng tôi vừa làm vừa vuốt nước mưa và động viên nhau: “Vì miền Nam ruột thịt”. Cũng có đêm, tàu bay Mỹ ném bom, thả pháo sáng rực trời khu vực ga Hoàng Mai, cách nơi chúng tôi làm chừng 5- 6km theo đường chim bay, soi rõ mặt từng người, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục công việc. Chúng tôi cố gắng dứt điểm từng đoạn một, làm theo kiểu cuốn chiếu, được Ban chỉ huy công trường nghiệm thu mới chuyển qua đoạn tiếp theo. Nhìn dòng kênh đã được nạo vét, sâu và rộng hơn, nghĩ rồi đây những những đoàn thuyền chở đầy vũ khí và lương thực sẽ nườm nượp lướt băng băng trên mặt kênh vào chiến trường đánh Mỹ, lòng chúng tôi dâng lên niềm vui khôn tả mà quên hết gian khổ, mệt nhọc.
Ngày ấy, bà con xóm 7, xã Quỳnh Liên, nơi đơn vị chúng tôi ở, phần lớn đều nghèo nhưng đều vui vẻ đón nhận chúng tôi ở trong nhà khi ngày Tết đang cận kề. Họ sẵn sàng nhường nhà, nhường giường, nằm ổ rơm chật chội để chúng tôi có nơi nằm ngủ thoải mái. Thấy chúng tôi lao động vất vả, giữa đêm mưa, gió rét, ngâm mình trong bùn nước vì sự nghiệp chung, bà con thương lắm. Biết nhà bà Hường không làm ngư, nhiều gia đình đi biển thỉnh thoảng đem biếu chúng tôi khi cả đĩa to cá thu, khi tôm, khi mực mà lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy; rồi khi thì củ khoai, củ lạc, mớ rau,… Quần áo chúng tôi lấm lem bùn đất, chưa kịp giặt, các em gái không ngần ngại gom lại, giặt sạch, phơi khô để tối mai chúng tôi có đồ đi làm. Tuy xa nhà, lao động vất vả, hiểm nguy, nhưng trước sự quan tâm, chăm sóc của bà con, chúng tôi luôn cảm thấy ấm áp và quên đi tất cả nỗi gian lao, nguy hiểm.
Nhà bà Hường là ngôi nhà tranh 3 gian. Bà năm nay gần 60 tuổi. Ông mất đã hơn 5 năm vì bạo bệnh. Nhà chỉ có 2 cô con gái, chị lớn tên Hồng đã đi lấy chồng trong xã từ cuối năm ngoái, cô út tuổi trăng tròn, tên Lan, nghỉ học ở nhà giúp mẹ. Lan có nước da trắng, mái tóc dài, đôi mắt bồ câu dịu dàng và hay e thẹn, vài ngày đầu thường “trốn” trong nhà, rất ít khi ló mặt ra ngoài. Có cô con gái lớn trong nhà nên 3 anh em chúng tôi lúc đầu ai cũng dè dặt, chỉ có anh Thành thỉnh thoảng còn “bạo mồm, bạo miệng” hỏi đùa đôi câu. Có lẽ vì thế, vài ngày sau thấy anh và Lan nói chuyện bình thường như quen nhau đã lâu. Tuy là dân biển, nhưng từ khi ông mất, bà chỉ làm ruộng. Khi chúng tôi đến ở, bà nhường cả 2 gian ngoài, bà và cô út ở gian trong. Gian ngoài đầu hồi có bộ phản gỗ mỏng, đủ chỗ cho 3 người nằm, phía trên gian giữa đặt chiếc bàn thờ. Ban ngày được nghỉ, chúng tôi hỏi bà có việc gì để làm hộ. Thấy mẹ con ra đồng bứt (cắt) rạ, chúng tôi ra ngoài ruộng cùng bứt và gánh rạ về cho bà. Thấy mái tranh phía sau có nhiều chỗ bị mục, nước mưa có thể lọt xuống, chúng tôi tự động lấy rạ mới khô dắm vào. Những đồ làm nông như cuốc, cào, bàn vét, cày, bừa… anh em đều đem ra chêm lại cho chắc chắn. Thấy mấy nhà trong xóm mang bò ra cày, làm đất trồng khoai lang, nghe Lan nói nhà cũng có 1 sào ruộng sẽ trồng khoai, thế là chúng tôi cùng nhau vừa cày, vừa phát góc xong trong buổi…
Đợt dân công hỏa tuyến của chúng tôi kết thúc vào đúng ngày 29 tháng Chạp âm lịch, nghĩa là chúng tôi được về sum họp gia đình trong những ngày Tết cổ truyền. Trước lúc ra về, chúng tôi đến chào tạm biệt và cảm ơn các gia đình trong xóm. Ngày chia tay ai nấy đều bịn rịn. Bà Hường làm quà cho chúng tôi mỗi người một cân ruốc, nghẹn ngào: “Khi nào các cháu có điều kiện nhớ đến thăm nhà mệ”. Còn em Lan, nước mắt giàn giụa, làm chúng tôi khó cầm lòng. Những ngày ở trọ trong nhà dân, được bà con miền biển Quỳnh Lưu cưu mang như những người thân ruột thịt, chúng tôi vô cùng cảm kích, biết ơn và sẽ không bao giờ quên. Cũng nơi đây, chúng tôi học được bài học quý trong đời về tình người – hành trang chúng tôi sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.
Ngày Chủ Nhật, quá Rằm tháng Giêng sau Tết năm đó, khi tôi đang ngồi chơi ở nhà anh Khoa, đột nhiên thấy anh Thành xuất hiện cùng Lan đi vào. Lan mặc chiếc áo trắng, cổ tròn, quần lụa đen, đội chiếc nón lá mới, nụ cười bẽn lẽn, 2 má đỏ hồng, miệng nhỏ nhẹ chào chúng tôi. Anh Thành tự nhiên: “Ôi, may quá, có cả 2 bạn, Lan mới vào chơi trưa nay, mang quà bà biếu các bạn”. Do bất ngờ, hai chúng tôi lúng ta lúng túng, mãi hồi lâu mới biết mời hai người vào nhà. Anh Khoa giới thiệu Lan với cha, mẹ. Rồi mọi người sang nhà tôi chơi, tôi giới thiệu Lan với cha và mời mọi người ở lại ăn cơm trưa. Anh Thành đỡ lời: “Lan mượn chiếc xe đạp chỉ đi trong ngày. Cha mẹ anh đang đợi ở nhà, cơm nước xong, Lan phải về ngay, kẻo tối”. Chúng tôi tiễn Lan đến hết đoạn đường làng trước ao Rộc Cửa. Lòng vui mừng khi nhìn bóng đôi trai gái khuất cuối đường rẽ vào nhà anh Thành Quyện…và hiểu rằng hai người đã mến nhau từ những ngày đầu đi vét kênh.

Tôi lao vào học kỳ cuối năm cấp 3, Chủ Nhật mới sang nhà anh Khoa và nghe anh kể lại rằng hai gia đình anh Thành và Lan đã đến nhà nhau và đã cùng đồng ý, song, bà Hường chỉ e Lan chưa đến 17 tuổi, sợ chính quyền địa phương chưa cho phép. Chuyện đang như thế thì tháng 5 năm đó anh Thành có lệnh nhập ngũ. Ngày anh nhập ngũ, Lan có mặt tại sân đình với chiếc áo trắng, quần lụa đen, chiếc nón lá hồi ra Tết thăm anh Thành lần đầu, với đôi mắt đỏ hoe…
Tôi vào đại học được vài tháng thì anh Khoa cũng lên đường tòng quân vào Nam. Cuối năm 1967, tôi nhận được thư anh Khoa thông báo anh Thành đã anh dũng hy sinh ngày 17/11/1967, tại cứ điểm E42, gần quốc lộ 14, trong trận đánh Đăk Tô – Tân Cảnh, tỉnh Kon Tum, một trong những trận đánh lớn giữa ta và Mỹ.
Tôi cầm lá thư mà không cầm nổi nước mắt, thương lắm hai người bạn và mối tình đầu trong trắng của họ. Mối tình chớm nở từ những ngày chúng tôi đi dân công nạo vét kênh Nhà Lê, lớn lên trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ gian khó và oanh liệt…
Trần Công Bổng














