Khi chị tròn mười tám tuổi, cái tuổi đẹp nhất của đời người con gái, chị đã gặp anh. Là con gái một, chị thừa hưởng ở người cha vóc dáng cao cao, nhanh nhẹn. Còn mẹ cho chị một khuôn mặt bầu bầu rất dễ thương. Cái miệng cười phô hai hàm răng trắng tinh, đều tăm tắp như hạt ngô non. Một cái cổ cao ba ngấn lấp ló sau màu áo nâu bó sát lấy khuôn người thon lẳn của chị. Rồi chị trở thành vợ của anh, chàng sỹ quan oai vệ, đẹp trai, người đã từng ở trong giấc mơ của bao cô gái làng. Hai đứa con kháu khỉnh nối nhau ra đời, một trai một gái, đứa giống mẹ đứa giống cha, cứ là đẹp như tranh. Các bà có con gái lớn thường lấy chị ra làm tấm gương cho con: Mở mắt ra mà nom cái Thanh đấy, lấy chồng cho đáng tấm chồng…
Thằng con đầu lòng của chị Thanh tròn 5 tuổi thì cũng là lúc đất nước đang sôi sục trong không khí của cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ. Miền Nam trở thành tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Ngày ấy, trai làng nô nức đi bộ đội để được vào Nam đánh giặc.
Là sỹ quan, anh Trung chồng chị Thanh được cử đi B đợt đầu. Anh giã biệt người vợ trẻ và hai đứa con xinh như mộng để vào tuyến lửa. Hôm tiễn anh, chị cứ sụt sùi khóc suốt. Nom chị thật bé nhỏ bên cái dáng cao to vạm vỡ của anh. Chị khóc vì thương nhớ anh, song còn một lẽ bây giờ chị phải một mình nuôi hai con nhỏ và thay anh gánh vác công việc trong gia đình, ngoài xã hội. Khi ấy chị còn là một thiếu phụ yếu đuối mới ngoài đôi mươi, nét ngây thơ vẫn còn phảng phất trên gương mặt.
Ngày ấy, tôi đã nhổ giò lớn bật lên và nhập vào đám chanh cốm của lũ con gái làng. Nửa ngày đi học, nửa ngày chúng tôi là những lao động tích cực của hợp tác xã. Chị trở thành chị cả của nhóm chúng tôi. Bao nhiêu việc nặng nhọc ở làng quê, cày bừa, gánh phân, nhổ mạ, đắp đê, đào công sự cho bộ đội,.. chúng tôi làm hết.
Giống như bao người đàn bà có chồng ra trận, chị Thanh giờ đã cứng cỏi lên nhiều. Nỗi nhớ chồng được giấu trong đôi mắt đen thăm thẳm của chị.
Anh Trung thì đã đi biền biệt mấy năm, lúc đầu còn có được lá thư, sau đấy thì biệt vô âm tín. Nghe nói, anh đã vào rất sâu, tận nơi cuộc chiến đấu ác liệt nhất.
Mùa hè, sau mỗi buổi đi làm đồng về, lũ con gái chúng tôi hay kéo nhau sang cầu ao nhà chị để tắm. Cái ao rộng mênh mông hàng mẫu, nước trong văn vắt. Một cây sung cổ thụ xoài cành giữa ao. Chúng tôi trèo tót lên đấy, rồi từ trên cành cây lao xuống nước và vô cùng thích thú với những trò tinh nghịch của mình. Trời nhá nhem tối, một lũ con gái cứ tồng ngồng hết cả. Có ai đâu mà sợ xấu hổ, cả làng có còn được mống con trai nào ra hồn, để được điệu đà, làm duyên làm dáng, được thẹn thùng cho ra vẻ con gái. Chúng tôi lôi chị Thanh vào cuộc. Lúc đầu chị phản ứng dữ lắm, sau quen dần thì chị cũng chẳng kém gì chúng tôi.
Da thịt những thiếu nữ mới lớn, nom rắn chắc, hấp dẫn làm sao, thế mà cũng chưa ăn đứt được chị Thanh đâu nhé. Chúng tôi lôi chị Thanh ra giữa dòng, đứa này cấu, đứa kia véo, rồi trầm trồ: “Ôi bà này mình trắm, thắt đáy lưng ong chả trách gì ông Trung ông ấy mê.” Làn nước mát lịm vuốt ve da thịt chúng tôi, ngày nào cũng chỉ có ngần ấy đứa con gái ngắm nhìn nhau. Tôi biết chắc chắn rằng, trong mỗi lồng ngực trẻ trung kia đang trào lên một nỗi khát khao thiếu nữ khó nói thành lời.
Đêm ấy, trời nổi giông lớn rồi mưa ập xuống trút ào ào trên mái rạ. Tôi sực tỉnh vì gió đánh bật tung cánh cửa sổ. “Chết! Gió mưa thế này mẹ con chị Thanh có khỏi việc gì không?” Nghĩ thế, tôi choàng dậy vớ vội lấy cái nón rồi nhào sang nhà chị. Hình như chị Thanh còn thức vì tôi nghe có tiếng người thì thầm. Nép mình vào góc hiên, tôi thấy tim mình như muốn bắn ra khỏi lồng ngực khi nghe tiếng một người đàn ông:
– Thanh ơi! Tôi van em, em mở cửa cho tôi vào với. Tôi yêu em từ lâu rồi, tôi xin em đấy! – Không có tiếng chị Thanh trả lời, chỉ nghe tiếng chị khóc rấm rứt. Lại có tiếng van nài:
– Thanh ơi, em ác quá! Mở cửa cho tôi đi em.
Tiếng ai quen quen. Chết rồi, tiếng lão Bất, Đội trưởng thủy lợi. Lão Bất có bốn anh em trai thì ba người đã đi bộ đội, lão được ở nhà để trông nom bố mẹ già. Tuy đã gần bốn chục cái xuân xanh, nhưng lão rất hấp dẫn bởi cái dáng cao to, phong tình.
“Trời! Sao lão ta có thể làm một điều tồi tệ đến như vậy? Chị Thanh ơi, đừng nhé!” Tôi thì thầm trong nỗi sợ hãi và sự căm giận đến run người nhưng tôi không sao mở miệng được để kêu lên. Có tiếng nói rất khẽ nhưng rành rọt của chị Thanh:
“Anh đi đi! Tôi xin anh, không tôi kêu lên bây giờ.” Tiếng chân lão Bất nhẹ nhàng chuồn ra cổng, và trong nhà, chị Thanh òa lên nức nở. Khổ thân cho chị quá, chị Thanh ơi!
∗
Trăng sáng vằng vặc, chỗ nào cũng thấy ánh trăng lơi lả trên cây lá trước hiên nhà. Chị Thanh ngồi sàng gạo dưới ánh trăng nom thật đẹp. Lũ chúng tôi ào đến ríu ran.
– Ối bà này chăm quá! Bà định làm để chết hay sao đấy, thế không định ngủ chắc?
– Các cô khác, chị không làm thế thì biết đi đâu, đêm thì dài, mãi chẳng sáng. – Chị chép miệng thầm thì, nửa như nói với chính mình, nửa như nói với chúng tôi.
– Bao giờ các cô có chồng khắc biết. Cứ phải bới ra việc mà làm cho đỡ buồn. Thôi thì xay thóc, sàng gạo, băm bèo, nấu cám,… Các cụ ngày xưa bảo “Vắng chồng đổ thóc vào xay” chẳng sai tý nào đâu. Mà anh ấy nhà chị, lâu lắm rồi chả có tin tức gì. Không biết có còn sống mà về với mẹ con chị?
Dưới ánh trăng tôi thấy mắt chị loang loáng nước.
Qua vài mùa hè, tôi đã lớn vổng lên thành một cô gái nhưng điều ý nghĩa nhất là tôi đã thi đỗ vào trường đại học trên thành phố. Tôi xách chiếc hòm gỗ tạm biệt làng quê bé nhỏ, lũ bạn và mẹ con chị Thanh ra đi.
Ngày tôi tốt nghiệp là lúc sôi động nhất của cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam. Đã là tháng Ba năm 1975 rồi mà. Những ngày ấy, bầu không khí cứ như được hâm nóng lên vài độ. Suốt ngày loa truyền thanh công cộng cứ dồn dập báo tin chiến thắng, tin mình đã giải phóng tới đâu rồi. Một không khí hân hoan tràn trề trên nét mặt mọi người. Rồi ngày giải phóng miền Nam, ngày Ba mươi tháng Tư đã tới. Tôi còn nhớ ngày ấy, chúng tôi đã sống trong niềm phấn khích bừng bừng như thế. Đã hai mươi năm nay, chưa bao giờ đất nước có một cuộc vui lớn đầy ý nghĩa như vậy. Một dải thống nhất từ Bắc chí Nam, một cuộc sum họp đoàn tụ của bao số phận, bao gia đình; vợ gặp chồng, cha mẹ gặp con, anh em làng xóm sum vầy, mừng mừng tủi tủi giữa sự kiện trọng đại nhất của đất nước vào thế kỉ hai mươi này.
Sinh viên được nghỉ mấy ngày, tôi băng về quê, mẹ đón tôi trong niềm hân hoan:
– Anh mày cũng sắp về rồi đấy con nhỉ? Nó đi cũng đã được năm sáu năm gì đó, ơn trời Phật, anh mày vẫn được bình an. Nó gửi thư về nói nó khỏe lắm.
Cơm nước xong xuôi, mẹ bảo tôi:
– Con sang thăm chị Thanh một chút. – Tôi hớn hở: – Anh Trung về rồi hả mẹ? Nhanh thế, vừa mới giải phóng xong.
Mẹ lặng lẽ: Con cứ qua đó khắc biết.
Từ ngoài sân tôi đã thấy chị có cái dáng của ngươi đàn bà mới sinh, da mặt xanh bợt, khăn vuông bịt kín tai, hai bầu sữa căng mọng. “Ồ! Bà này mắn thật, ôngTrung về khi nào mà đã kịp có tác phẩm thế này?” Chị Thanh trông thấy tôi thì mặt xịu xuống, hai mắt cùm cụp, ầng ậng nước. Không khí trong nhà chị rất nặng nề, u ám…
Tôi hiểu ra rồi. Trời đất ơi! Chị Thanh đợi anh Trung đã hơn chín năm trời, đợi mòn mỏi suốt những năm tháng của tuổi thanh xuân đẹp nhất đời người thiếu phụ. Chính tôi đã chứng kiến sự gìn giữ, kiên trinh của chị mà thầm cảm phục. Anh Trung chưa hề có tin tức gì… Trời ơi, sao lại thế này? Tôi ôm đứa nhỏ trong tay mà cứ trào nước mắt. Tội nghiệp cho bé quá, cha của bé là ai đây? Người đàn ông nào đã phá hỏng cuộc đời chị Thanh vào đúng lúc này?
Hôm ấy, có tôi, chị Thanh được khóc thỏa thích. Một nỗi tủi hổ, xót xa ân hận và có cả sự tuyệt vọng toát lên từ chị. Tôi nắm tay chị, vuốt mãi những ngón tay xanh xao của một người mẹ mới qua cơn vượt cạn và đang trải qua những nỗi dằn vặt nội tâm ghê gớm.
– Chị xấu xa tồi tệ quá phải không cô? Chị chả còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa. Trời ơi! Sao tôi không chết đi cho rồi? – Vừa nói chị vừa khóc lóc đến thê thảm. Tôi khẽ khàng an ủi chị:
– Chị mới sinh đừng nghĩ ngợi quá, không có lợi. Còn phải nghĩ đến các cháu nữa chứ. Đằng nào cũng trót thế rồi, thời buổi chiến tranh loạn lạc, xóm làng cũng cảm thông chứ chẳng ai nỡ trách chị đâu. Còn anh Trung, em tin rằng anh ấy cũng sẽ hiểu và tha thứ cho chị.
(Tôi cũng mạnh mồm mà nói cho yên lòng chị chứ… nói dại, anh Trung trở về thấy chị thế này… liệu anh ấy có chấp nhận và tha thứ cho chị không?) Tình huống khó xử này một cô gái chưa từng trải như tôi không sao lường hết được.
∗
Ba tháng sau ngày giải phóng miền Nam, anh Trung trở về làng, anh đã chỉ huy bộ đội chiến đấu ở mặt trận cửa ngõ Sài Gòn những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Anh đã từng bị thương, tưởng không qua nổi, vì thế mấy năm liền anh chẳng liên lạc được với gia đình. Anh sung sướng đáp chuyến xe quân sự ra Bắc với ve hàm Trung tá; vô số những bằng dũng sỹ, giấy khen và hai vết thương sâu hoắm trên người. Vai anh đeo một ba lô lỉnh kỉnh những chéo vải dù chiến lợi phẩm, một xếp khăn ni-lông làm quà cho mọi người, một con búp bê biết nhắm mắt mở mắt y như người thật cho con gái, một chiếc khung xe đạp cho con trai. Anh dành thời gian tỉ mẩn giũa chiếc lược từ máy bay Mỹ làm quà cho chị để chị chải mái tóc đen mượt của mình. Bao năm anh vẫn không quên mùi bồ kết lá chanh vương trên tóc chị.
Bao nhiêu thương nhớ của thời gian gần mười năm trời xa cách, anh ghi lại trong cuốn sổ nhật ký lỗ chỗ vết đạn, anh sẽ mang về cho chị đọc để chị thấy anh yêu chị đến nhường nào. Ngồi trên xe anh nôn nóng mong xe chạy thật nhanh, nhanh nữa để anh chóng được gặp vợ con mình.
Mẹ là người đón anh ở đầu làng, bà ở với con gái ở đầu xóm. Bà nhào tới ôm lấy anh vuốt ve, sờ nắn khắp người con. Bà không thể tin đứa con bằng xương bằng thịt của bà đã trở về. Người mẹ đã hi sinh cả cuộc đời cho chồng cho con, đã rất dè dặt, buồn bã khi kể cho anh nghe chuyện vợ con anh. Bà nghẹn ngào:
– Con đi xa mới về, lẽ ra mẹ không nên nói, nhưng không thể giấu được con nữa rồi. Con ơi, vợ con nó đẹp người đẹp nết, nhà mình có phúc mới lấy được nó cho con. Nó chờ đợi con đã gần chục năm rồi, không có điều tiếng gì, thế mà… Mẹ thương nó quá…! Cũng chỉ tại thằng Mỹ thôi. Mẹ xin con hãy bình tâm mà thương lấy nó… Còn đứa bé nữa, nó nào có tội tình gì!
Nghe mẹ nói, anh bàng hoàng như có một nòng súng đang chĩa thẳng vào ngực mình nã đạn. Chỉ thấy anh ngồi chết lặng, miệng đắng ngắt, mắt nhìn trừng trừng vào một cõi vô hình nào đấy. Lâu lắm, rồi anh cương quyết xốc ba lô đứng lên:
– Mẹ cứ để con về nhà, con muốn gặp các cháu.

∗
Tối hôm ấy, bà con làng xóm hay tin anh trở về, kéo đến nhà anh rất đông, ai cũng mừng là anh đã trở về. Những lời thăm hỏi tíu tít, những bát nước, điếu thuốc cứ truyền nhau mãi nếu ông trưởng thôn không ý tứ nhắc nhở mọi người về nghỉ kẻo khuya rồi. Không nói ra, nhưng ai cũng tạm yên lòng vì thấy anh rất bình tĩnh.
Từ lúc anh về, chị Thanh vẫn ở lì trong buồng, giá có phải làm việc gì, chị lén chạy thật nhanh cuống quýt vội vội vàng vàng rồi lại chui mải vào buồng.
Khi mọi người đã về hết, còn lại mấy bố con, anh mới có dịp ngắm những đứa con của mình. Chúng sắp thành người lớn hết cả rồi, trông chúng, biết là con anh đã được nuôi dạy khá chu đáo. Hai đứa tranh nhau sửa soạn giường cho bố. Thằng anh tần ngần:
– Bố ngủ với con bố nhé!
– Ừ! Con cứ ngủ trước đi, bố phải tắm cái đã, đi đường mấy ngày người bẩn chết đi được…
Đêm mỗi lúc một khuya, trăng hạ tuần dãi đầy thềm. Anh lấy tấm tăng mắc lên hiên nhà cho mát. Bao thuốc cứ vơi dần, vơi dần. Cả đời anh, từng vào sinh ra tử bao lần, bao lần phải giải quyết những chuyện rắc rối phức tạp xảy ra với mình, nhưng chưa bao giờ anh gặp một tình huống bi đát đau đớn đến thế này. Tại sao lại đến nông nỗi này hả Thanh ơi? Anh giận chị, căm giận cái thằng mất dạy nào đã hại đời chị. Một ý nghĩ bừng bừng lên trong đầu anh, phải tìm cho được cái thằng mất dạy ấy, nã hẳn một băng đạn vào giữa mặt nó cho hả… Nó là thằng nào? Trời ơi!
Trong nhà, chị Thanh ngồi ôm đứa con bé bỏng mà nước mắt rơi lã chã ướt hết cả mặt con bé. Một nỗi tủi hổ đến tận cùng làm chị không còn đủ can đảm để giáp mặt anh. Còn mặt mũi nào mà gặp anh nữa. Chị căm thù cái đêm trăng định mệnh. Giá như chị đừng có những phút yếu lòng thì đêm nay chị đã đang được úp mặt vào lồng ngực rắn chắc của anh mà khóc cho thỏa thích.
Thời gian cứ chậm chạp nhích dần từng phút, đêm đặc quánh, ngột ngạt, bức bối. Hai người đã trải qua một đêm nặng nề khủng khiếp nhất trong đời họ. Có một điều, mọi ý nghĩ của họ dù đau đớn đến tê dại, dù giận hờn đến sôi sục, dù tủi cực đến ê chề thì vẫn hướng về nhau. Có lúc cả hai đã muốn chạy ào về phía nhau, ghì chặt lấy nhau mà thổn thức. Đầu họ nghĩ nhưng chân họ không sao nhấc lên nổi. Không thể ngờ rằng, sau mười năm xa cách, mười năm của bao thương nhớ đợi chờ mòn mỏi, giờ họ đã ở bên nhau nhưng lại trong một tình cảnh trớ trêu ngang trái đến thế này.
Quá mệt mỏi, anh thiếp đi từ khi nào. Anh không biết, chị đã đứng bên anh rất lâu. Chị mê mải ngắm khuôn mặt thân quen sau bao nhiêu năm xa cách. Dưới ánh trăng nhợt nhạt, chị vẫn thấy đầy đủ những nét đáng yêu trên gương mặt anh. Đôi mắt sáng, lông mày dài giao nhau, cái nhếch mép rất hài hước. Chị rất muốn được ôm ghì lấy anh, hít hà cái mùi quen thuộc của anh nhưng chị đành đứng chết lặng ở đấy, thậm chí không dám chạm tay vào người anh. Chỉ có tiếng thì thầm rất khẽ trong nước mắt:
– Xin anh ngàn lần hãy tha thứ cho em.
Khi anh bừng tỉnh giấc thì ánh nắng đã soi vào tận hiên nhà. Tiếng đứa con gái giục bố:
– Bố ơi! Bố đi rửa mặt rồi vào dùng cơm.
Một mâm cơm tươm tất để sẵn trên bàn, một đĩa cổ cánh gà, món để anh nhâm nhi với ly rượu thuốc, một bát canh chua ngày xưa anh vẫn thích. Thanh đã trở dậy khi nào nhỉ? Từ hôm qua, anh chưa có lúc nào ngồi riêng với chị, thậm chí họ còn chưa có một câu nói với nhau. Bỗng dưng anh thấy mình thật vô lý, nhỏ nhen, chẳng phải là con người của mọi khi. Anh quay sang bảo con:
– Con vào mời mẹ ra ăn cơm.
– Mẹ đã đi chợ từ sáng sớm rồi bố ạ.
Ba bố con ngồi xuống mâm cơm, bữa cơm thật rời rạc, nặng nề. Anh cất tiếng phá tan bầu không khí im lặng:
– Thế em bé có đủ sữa bú không? Nó có ngoan không?
Con em thấy bố hỏi, cúi mặt lý nhí:
– Nó, nó cũng ngoan bố ạ.
– Thế các con có giúp được gì cho mẹ không?
– Cũng có ạ. – Thằng anh lên tiếng – Vả lại chúng con bận đi học suốt, mẹ bảo chúng con phải tập trung vào việc học là chính, những việc nhà mẹ tự làm được.
Anh kéo ghế ngồi sát hai con, cất giọng nhẹ nhàng:
– Các con hãy hiểu và thương mẹ, chỉ tại chiến tranh, tại cả bố nữa, chứ mẹ con không có lỗi. – Quay sang bên cạnh, vớ cái áo khoác lên người, anh dặn con: – Bố ra thăm bà ngoại, bảo với mẹ thế nhé. Trưa nay bố muốn bà nội, bà ngoại cùng ăn bữa cơm sum họp với nhà ta.
Anh ngồi nghe bà cụ hỏi chuyện, sau mười năm xa cách mẹ con cũng có bao điều muốn nói. Tóc bà đã bạc trắng hết cả, chốc chốc bà lại lấy khăn chấm nước mắt.
– Cha mẹ sinh con trời sinh tính, tôi cũng không ngờ sự việc nó lại xảy ra như thế. Giờ thì tùy ở anh thôi… chỉ thương ba đứa trẻ…
Cầm bàn tay nhăn nheo của bà cụ, anh sẽ sàng nói:
– Con hiểu hết cả rồi mẹ ạ, mẹ đừng buồn nữa, con đã về đây nhất định con sẽ chăm lo chu đáo cho mẹ con nó…
Chợt thằng con anh hớt hải chạy vào:
– Nguy rồi bố ơi! Mẹ… Mẹ đã…
Nấu xong nồi cơm cho bố con anh, chị Thanh trở vào cho con bé bú một bầu sữa no nê, quay ra vẫn thấy hai đứa lớn còn nằm ngủ, chị đứng nhìn con rất lâu rồi quả quyết lao ra phía đầm cá. Ông lão coi cá còn thấy mớ tóc chị bập bềnh vướng vào cành trà ở chỗ nước sâu nhất.
Chị Thanh để lại bức thư vẻn vẹn có mấy dòng. “Anh Trung, ngàn lần mong anh và các con tha lỗi cho em. Em đã không còn xứng đáng với anh nữa. Vĩnh biệt anh và các con…”
∗
Giờ, anh Trung vừa là người cha, vừa là người mẹ trong nhà. Sau chuyện đau lòng kia, anh đã xin giải ngũ về nhà. Các con anh không thể không có anh lúc này. Anh phải thay chị làm tất cả công việc của người đàn bà. Xay giã, dần sàng, bếp núc, bảo ban con cái học hành. Khổ nhất là con bé thiếu sữa mẹ cứ khóc ngằn ngặt cả đêm. Một tay anh ôm con, tay kia quấy bột, bàn tay người lính chỉ quen cầm súng giờ mới lóng ngóng vụng về làm sao.
Đêm đêm, anh cất tiếng trầm đục ru đứa trẻ: Con ơi con ngủ đi mà/ Kẻo mẹ ngoài cánh đồng xa mẹ buồn/ Trời còn chớp bể mưa nguồn/ Cha còn thương nhớ mẹ con suốt đời…
Rồi anh cũng đã lên chức ông nội, ông ngoại, con bé út đã học xong Cao đẳng sư phạm, nhưng chưa chịu lấy chồng. Nó ôm cổ anh nhỏn nhẻn:
– Con ứ lấy chồng đâu, con ở nhà phụng dưỡng bố cơ.
Anh dí yêu vào trán con:
– Cha bố cô! Định ở nhà làm bà cô chắc?
Người ở xa đến không biết chuyện cứ khen con bé giống bố, mà anh cũng yêu thương nó nhất trong ba đứa con.
Lại một mùa xuân nữa đang đến, anh ngắt một chùm hoa bưởi đặt lên bàn thờ chị. Mùi hoa bưởi ngan ngát, anh tưởng như bóng dáng chị hiện về đâu đây. Thế mà, hơn hai chục mùa xuân đi qua rồi đấy…
Ánh Tuyết














