Ông sinh năm Tân Mùi (1931), nhưng giấy khai sinh lại ghi là 15/5/1933. Tôi chọn năm 1932 để viết về Ninh Viết Giao nhân ngày sinh lần thứ 90 của ông, 8 năm sau khi ông qua đời (năm 2014).

Năm 2006, cách đây 16 năm, nhân 50 năm sống và lập nghiệp ở xứ Nghệ (1956-2006), Ninh Viết Giao cho in cuốn sách Xứ Nghệ và tôi (Nxb Nghệ An, 2006) sau 40 công trình đã được ấn hành. Năm năm sau, năm 2011 trong Danh mục công trình xuất bản ông lại có thêm 10 đầu sách nữa, để từ 40 lên 50. Vậy là mỗi năm có thêm hai quyển. Vào thăm ông một ngày cuối năm 2011, tôi không ngờ sức lao động, sức viết của ông vẫn miệt mài và dẻo dai đến thế. Một lao động gần như là bất chấp bệnh tật, bất chấp tuổi tác, bất chấp mọi kham khổ, chật chội trong căn hộ gần như không thay đổi gì mấy trong hơn ba chục năm qua.

Xem ra ở tuổi ngoài 75 (chứ không phải 70 “cổ lai hy”), với ông đã diễn ra một chu trình ngược: những suy giảm về sức khỏe cùng độ tăng tuổi tác là không cùng chiều với năng suất nghề nghiệp.

Ở tuổi 75, tôi có lời khuyên ông nên nghỉ ngơi, bởi sự nghiệp thì gần như đã trọn vẹn rồi. Nói đến Ninh Viết Giao là nói đến một người như thế, không ai trong chúng tôi hơn được, không ai sánh được. Từ nay, nếu có thêm gạch đầu dòng nào trong Danh mục sách thì cũng chẳng thêm, hoặc hơn những gì đã có. Thế nhưng, không chỉ một, hai, hoặc ba gạch đầu dòng, mà là những mười gạch đầu dòng, thậm chí còn hơn nữa, thì đó mới là điều gây sửng sốt! Hóa ra là cả hai phía: tiềm năng văn hóa xứ Nghệ và năng lực khai phá của Ninh Viết Giao, đều gần như khôn cùng.

Năm 2006, một tổng kiểm kê gồm 40 tên sách ở tuổi 75 quả là một mục tiêu quá cao đối với nhiều người. Thế mà từ ấy, được lời mời của ông tôi đã nhiều lần khăn gói vào Vinh để dự những cuộc họp do ông chủ trì, hoặc ông có tham gia như Phan Bội Châu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Công Trứ, Ngô Đức Kế, Phan Thúc Trực, Thần tích Đền Cờn, rồi tiếp đó là Thần Rắn: Thành hoàng đền Hạc Linh Sơn… Tôi nhớ tôi có nói trong một cuộc họp đâu đó rằng, lúc nào Nghệ Tĩnh có hội thảo, và là hội thảo do Ninh Viết Giao tổ chức hoặc chủ trì thì cho tôi xin một giấy mời để tôi có cơ hội tham dự, và… về quê. Bởi tôi tin đó là những hội thảo có chất lượng – nhờ vào cái đề dẫn do ông viết rất công phu, và những báo cáo được ông chọn đặt, số lớn đều là các chuyên gia đầu ngành vốn là đồng nghiệp và bạn bè tin cậy của ông ở nhiều nơi, trước hết là Thủ đô Hà Nội.

Cùng với hội thảo là những tên sách, không ngừng xuất hiện, tên sách này gọi tên sách kia. Bởi khi đã có một định hướng lớn tạo thành hệ thống thì tất cả đều vận hành theo quy trình của nó, từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng, khó nói đến điểm dừng, miễn là trời cho người ta có một sức khỏe, và trước hết là một sự minh mẫn ở đầu óc.

Một sức khỏe… Từ 1995 ông đã bị một căn bệnh hiểm nghèo. Thời gian vào ra bệnh viện và những rắc rối cho việc điều trị nó, ông đã phải chấp nhận từ tuổi ngoài 60. Những năm sau đó, diễn biến xấu đi nhiều. Cổ cứng, vì chiếu xạ nhiều nên khó xoay. Tay phải bị tê khó gắp được thức ăn và không gài được cúc áo. Chân khập khiễng nên đi lại chậm chạp. Trong căn hộ ngập đầy sách vở, nhìn ông di chuyển từ phòng làm việc ra phòng ngoài ngăn cách bởi một khung tường dày – để tiếp khách, trò chuyện, ăn uống, thư giãn…; hình ảnh đó, ba mươi năm trước đã thế và bây giờ vẫn thế; cái khác chỉ là không gian dường như thu hẹp lại và trở nên chật chội hơn; đồ đạc thì đơn sơ và cũ kỹ, ngược lại với đời sống tiện nghi đang len vào khắp mọi chốn, mọi nhà.

Sức khỏe sút đi đó là quy luật tự nhiên khó cưỡng. Nhưng sự minh mẫn về tinh thần thì có thể bảo trì, rèn luyện cho đến tuổi 70, 75 và 80, như ông: một vận hành không ngừng nghỉ của trí tuệ – “dao có mài mới sắc”, nói như Xuân Diệu. Và sản phẩm, đó là những tên sách. Hãy điểm lại những tên sách quan trọng nhất trong hành trình ngót 60 năm lao động viết, tính cho đến hôm nay mà ông là tác giả, đồng tác giả hoặc chủ biên.

Bắt đầu từ Câu đố Việt Nam (1958), chuyển sang Hát phường vải (1961) – đó là sự khởi động một công trình lớn để ông theo đuổi suốt đời là văn học dân gian và văn hóa xứ Nghệ: Hát giặm Nghệ Tĩnh, viết chung với Nguyễn Đổng Chi (1962-1963); Về văn học dân gian Nghệ Tĩnh (1982); Gánh bưởi qua sông (truyện cười dân gian Nghệ Tĩnh, 1992); Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ (4 tập, 1993-1995); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (2 tập, 1996); Kho tàng vè xứ Nghệ (9 tập, 1999-2000);…

Từ văn hóa dân gian chuyển sang văn học viết: Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh (1971), Nghệ Tĩnh – gương mặt nhà văn hiện đại (1990), Thơ văn Võ Liêm Sơn (1993), Thơ văn nhà Nho xứ Nghệ (1995), Văn bia Nghệ An (2004), Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 19 và tập 31, 2000), Tổng tập thơ văn yêu nước và cách mạng xứ Nghệ (2 tập),…

PGS Ninh Viết Giao và một số cuốn sách của ông.

Sau đó, ông lại mở rộng đường biên sang lĩnh vực văn hóa. Không dừng lại, ông lại tiếp tục vươn qua các lĩnh vực của khoa học xã hội như xã hội học, phong tục học, dân tộc học, sử học, địa phương học… với các công trình: Hương ước Nghệ An (1998); Nghề, làng nghề truyền thống ở Nghệ An (1998); Tục thờ thần và thần tích Nghệ An (2000); Văn hóa ẩm thực dân gian xứ Nghệ (2001); Về văn hóa xứ Nghệ (tập 1, 2003, tập 2, 2007 và tập 3, 2012); Nghệ Tĩnh trong Tổ quốc Việt Nam (1975); Nghệ An: lịch sử và văn hóa (2005); Nghệ An: đất phát nhân tài (2006), rồi một công trình rất sáng giá: Từ điển nhân vật xứ Nghệ (2008) cùng một số công trình biên soạn đã xong: Văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi Nghệ An; Văn hóa phồn thực dân gian xứ Nghệ;…

Trên hành trình vừa chuyên sâu vừa mở rộng ấy, ông đã và đang tiếp tục các bộ địa chí cho các huyện như Địa chí Tân Kỳ (1992), Địa chí Diễn Châu (1995), Địa chí Quỳnh Lưu (1998), Địa chí Nam Đàn (1998), Địa chí Tương Dương (2003), Địa chí Quỳ Hợp (2003), Địa chí Hưng Nguyên (2009), và Địa chí Nghi Lộc… Tiếp đó là bộ Nghệ An toàn chí (22 tập, mỗi tập từ 500 – 1.000 trang) một công trình vĩ mô, một dự án về văn hóa phi vật thể do Tỉnh ủy và UBND Tỉnh Nghệ An chủ trương mà ông là chủ dự án đồng thời là Tổng chủ biên, trong đó có Từ điển địa danh Nghệ An.

Các công trình của ông dù xuất bản ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, hay Nghệ An đều được biên soạn nghiêm túc, công phu. Nó đã và đang là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về văn hóa văn nghệ dân gian, về khoa học xã hội và nhân văn trong toàn quốc; là kho tư liệu quý cho rất nhiều luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ thuộc các chuyên ngành văn hóa, lịch sử, văn học – nghệ thuật….

Đánh giá về ông, có người gọi ông là Nhà địa phương học Nghệ An, có người gọi ông là Nhà Nghệ học, Nghệ Tĩnh học, Người đi tìm vàng mười trong cái nghèo của xứ Nghệ, Người cứu một gia tài văn hóa phi vật thể của xứ Nghệ, Người thổi hồn vào gia tài văn hóa dân gian xứ Nghệ…

Nhiều giải thưởng của Hội Văn nghệ dân gian và UBND tỉnh Nghệ An ông đã được nhận, nhưng cao nhất là Giải thưởng Nhà nước năm 2001; và Giải Hồ Chí Minh năm 2017 sau khi qua đời.

Đọc các công trình trên, nhất là các cuốn địa chí mới thấy sự hiểu biết ở ông là rộng lớn đến thế nào. Những đại đồng và tiểu dị trong nhận thức và khái quát cho từng huyện, giúp ta hiểu mối quan hệ giữa riêng và chung; riêng từng vùng và chung cho xứ Nghệ; riêng xứ Nghệ và chung cho cả nước. Trên những cố gắng khắc họa diện mạo từng vùng, các thế hệ hậu sinh nếu chịu khó tìm hiểu sẽ có thể cắt nghĩa được bao điều đang diễn ra hoặc đã mất đi trong hiện tại, giúp cho việc tiếp nhận, thanh lọc hoặc loại bỏ trên con đường phát triển và hội nhập.

Tôi dám chắc không có một vùng văn hóa nào, kể cả Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có được một diện mạo đầy đủ và kỹ lưỡng như vùng văn hóa Nghệ Tĩnh. Người Nghệ Tĩnh trên đất quê, hoặc xa quê như chúng tôi, nếu có ý thức về cội nguồn, về lịch sử, đều rất biết ơn ông là do thế.

Những tên sách kể trên, nhiều cuốn do ông viết riêng, hoặc viết chung, một số cuốn do ông chủ biên. Có nghĩa là ông không hoàn toàn đơn độc. Bên cạnh ông, vẫn có đồng nghiệp. Trước ông như Giáo sư Nguyễn Đổng Chi. Cùng ông như các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh, Võ Hồng Huy, Thái Kim Đỉnh, tất cả đều đã qua đời. Đó là không nói đến một cộng đồng rất đông đảo học sinh gồm nhiều thế hệ, hồi ông dạy Trường cấp III Huỳnh Thúc Kháng hoặc Sư phạm Trung cấp; rồi sau đó khi ông phụ trách hai khu vực “đào-bồi” (đào tạo, bồi dưỡng) ở Sở Giáo dục – Đào tạo Nghệ An cho đến năm 1992 là năm ông nhận chức trách Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An, đã giúp ông trong việc sưu tập, ghi chép tài liệu… tất cả, đều là vô danh, mà nếu không có họ, không chắc ông đã có được một sự nghiệp như bây giờ. Đó là điều lúc nào ông cũng tâm niệm và vô cùng biết ơn. Thế nhưng cuối cùng, nghĩ về văn học dân gian xứ Nghệ, và rộng ra là văn hóa vùng xứ Nghệ, vẫn chỉ một tên ông đứng đầu, để đến bây giờ, ông đã có một Tổng tập về văn hóa – văn nghệ dân gian xứ Nghệ, gồm 45 cuốn, nhiều cuốn đã và đang xuất bản, nó sẽ kết thành một dãy dài trong tủ sách của ông.

Nói đến Ninh Viết Giao còn là nói đến một người thầy của nhiều thế hệ học trò, dẫu số năm đứng trên bục giảng của ông không nhiều. Chắc chỉ trên dưới 10 năm. Còn sau đó là công chức của một Ty, một Sở. Nhưng là một công chức có tư cách người thầy và có uy tín trong nghề nghiệp. Cuốn sách tôi nhận được ở ông vào năm 2011 là cuốn Trường phổ thông cấp III Huỳnh Thúc Kháng 1955-1975 gồm phần đầu là khái quát lịch sử của trường trong hai thời kỳ 1955-1965 và 1965-1975; và phần sau là một số chân dung của thầy và trò, theo tôi có rất nhiều giá trị lịch sử. Qua bộ nhớ, và qua cách trình bày của tác giả, đọc vào thấy như một tấm gương thu nhỏ mà nhận ra cảnh quan giáo dục của miền Bắc những năm đất nước chia đôi trong hai cuộc chiến tranh. Bởi Trường Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ An), cũng như Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), Lam Sơn (Thanh Hóa), Lê Hồng Phong (Nam Định), Trần Phú (Hải Phòng), Hàn Thuyên (Bắc Ninh), Hùng Vương (Phú Thọ) đều là những địa chỉ sáng giá trong bức tranh giáo dục một thời.

Ở khu vực “hồi ký” này ông còn dư vốn để viết về nhiều câu chuyện đáng nhớ, sau câu chuyện về “tôi”, về “tôi và xứ Nghệ”, về tôi với tư cách làm thầy, chưa nói về tôi với nhiều tư cách khác. Ông là người có hai quê hương để nhớ; có những bậc thầy để quý trọng; có đồng nghiệp và bè bạn để thủy chung… Tất cả các phương diện của sự sống và nghề nghiệp nếu được viết ra tôi tin sẽ có nhiều thú vị và cảm động.

Đối với tôi, vẫn như ba, bốn chục năm về trước, ông là một tấm gương cho tôi soi vào mà vượt khổ, vượt khó. Vượt khổ theo tôi nghĩ, thì không khó bằng vượt khó. Qua tấm gương vượt khổ và vượt khó của ông tôi hiểu thế nào là phép biện chứng và những nghịch lý của đời. Không có cái được nào mà không kèm với cái khó. Và chỉ cái được vượt lên sự khó mới là cái được đáng giá và trân trọng.

Đã có trên 50 bài viết về ông đăng trên các báo chí từ Trung ương đến địa phương được gom lại in trong Xứ Nghệ và tôi xuất bản năm 2006. Sau đó còn có thêm nhiều bài nữa.

Cuối cùng điều tôi muốn nói, các thể chế xã hội đã và sẽ qua đi; các quan niệm, tư tưởng về học thuật, về văn hóa của cá nhân có thể thay đổi, nhưng Nhân dân là vô cùng vĩ đại và bất tử. Những gì mà Nhân dân đã sáng tạo ra, đã được lưu truyền và phát huy trong quá trình lịch sử và được thử thách trong thời gian mà vẫn tồn tại cũng bất tử. Chất liệu để làm nên các công trình văn hóa, văn nghệ dân gian xứ Nghệ của Ninh Viết Giao – tất cả đều là của Nhân dân – tôi tin nó cũng sẽ bất tử.

Phong Lê

(Bài đăng trên tạp chí Sông Lam số 27, tháng 9/2022)