Nhớ mãi lời ru

Chiều buông. Tôi ngồi một mình lặng lẽ trên sân thượng, lòng dội lên những âm thanh xưa cũ. Đâu đây, vẳng lên tiếng võng kẽo kẹt, giọng ru ấm áp của bà, của mẹ.

 “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhân dân làng Đức chợ chiều nuôi con…”

Từ những năm tháng còn bế ẵm trên tay, lời ru của bà, của mẹ đã thấm sâu vào hồn tôi như một thứ hương quê không thể nào phai nhạt. Lời ru ấy có tiếng gió thổi qua lũy tre làng, có hơi thở của đất trời mùa nắng hạn, có cả những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán bà, trán mẹ. Giọng ru ấy không chỉ ru tôi vào giấc ngủ êm đềm mà còn gieo vào lòng con trẻ những triết lý sâu xa của cuộc đời.

“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm rơi cổ xuống ao”

Từng câu, từng chữ, từng lời của bà, của mẹ ru như một bài học đầu đời. Con cò ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính những con người chân chất, nhọc nhằn mưu sinh. Đêm tối, đường xa, cành mềm nước sâu… bao hình ảnh ấy đã khắc sâu trong tâm trí tôi về sự chông chênh của phận đời, phận người. Nhưng cũng chính từ những vấp ngã, những lần “rơi cổ xuống ao” con cò lại vươn mình bay lên, mạnh mẽ và kiên cường trong dông bão. Một đời cha mẹ tảo tần, chẳng màng gian khó. Tôi còn nhớ như in những chiều đông rét mướt, mẹ vừa ru con : “Ru con giữa buổi chiều đông, để mẹ tát nước giữa đồng đêm nay” vừa cuộn tấm áo sờn vai quấn chặt thân mình. Mỗi lời ru như chiếc chăn ủ ấm tuổi thơ tôi giữa mùa nghèo khó.

Có những đêm, mẹ thức suốt canh khuya bên khung cửi, tay dệt vải, lòng dệt mộng tương lai cho con:

“Ru con con ngủ cho say
Để u dệt vải cho thầy nhuộm nâu”

Tấm vải ấy, có khi là manh áo lành che thân con, có khi là nét tự hào lặng lẽ của một người mẹ chẳng ngơi tay vì con cái. Tình mẹ là thế!

Là tình yêu không đòi hỏi, không phô trương, chỉ âm thầm như giọt mưa nuôi cây lớn. Tuổi thơ tôi lớn lên bằng lời ru mẹ dặn:

 “Con ơi, mẹ dặn câu này/Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm”

Lời ru tưởng giản đơn mà là lời gửi gắm cả một đời. Mẹ không mong con thành quan lớn, chỉ mong con sống tử tế, đủ đầy. Lớn lên, tôi thấu hiểu thêm về nghĩa vợ chồng. Không cần cao lương mỹ vị, chỉ cần “Râu tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” là đã đủ đầy. Có những bữa cơm nghèo mà hạnh phúc. Vì có người bên cạnh để cùng nhau đi qua những tháng ngày chật vật.

Còn cha, người ít nói, nhưng ánh mắt luôn dõi theo từng bước con đi. Cha không ru, nhưng lặng thầm dạy bằng đời mình, như một câu ca xưa vọng lại: “Cầu giai mẹ đổ luôn tay, cho lành manh áo, cho đầy cơm con”. Cha là một cột trụ, mẹ là bếp lửa hồng – Cả hai vun đắp nên mái ấm bình yên.

Tuổi thơ tôi cũng từng ngây ngô tin rằng cái quạt mo của thằng bờm là báu vật, dẫu  “Phú ông xin đổi ba bò chín trâu”. Bờm chẳng đổi, vì người quê mình luôn biết cái gì mới thật sự quí: đó là tình nghĩa, là lòng chân thật.

Tôi lớn lên giữa nhưng câu ca dao xứ Nghệ mà bà và mẹ ru hằng đêm. Ở đó, tôi thấy hiện lên bức tranh của vùng quê nghèo, nhưng nghĩa tình ấm áp. Từng nhịp điệu của lời ru thấm vào tôi như dòng sữa ngọt ngào, dưỡng nuôi tâm hồn thơ trẻ. Để rồi mỗi lần xa quê, trong những buổi chiều chạng vạng nơi phố thị ồn ào, tôi lại thấy lòng mình bỗng chùng xuống, thèm nghe lại tiếng ru của bà của mẹ ngày nào.

Lời ru của bà, của mẹ không chỉ là ký ức mà còn là quê hương, là cội nguồn là hành trang theo tôi đi suốt cả cuộc đời.

Quê hương: Duy Sơn

Chiều nay, tôi trở về quê hương sau bao năm dài xa cách. Bươn chải nơi đất khách quê người kiếm sống, lúc nghỉ hưu tôi mới có dịp trở về, để được thả hồn mình trên con đường cũ năm nào, đứng ngắm cánh đồng làng, nơi hương lúa đồng quê vẫn ngọt ngào, vẫn đượm tình trong gió, nơi từng đàn cò trắng bay lượn như những nét chấm phá mềm mại giữa bức tranh đồng quê xanh mướt. Lòng mình bỗng chợt thấy bâng khuâng, như có gì đó vừa thức dậy trong sâu thẳm lòng người.

Tôi nhớ lời ru của bà, của mẹ, nhớ những câu ca dao mộc mạc, giản dị mà da diết đến nao lòng. Những lời ru ấy đã ru tôi vào giấc ngủ thời thơ ấu, theo tôi trong những ngày thơ dại, và vẫn còn đó trong tiềm thức, như ngọn lửa nhỏ âm ỉ cháy suốt hành trình cuộc đời tôi.

Chiến tranh đã cuốn tôi và bạn bè rời xa ghế nhà trường khi còn dang dở tuổi học trò. Những năm tháng tuổi mười bảy, mười tám đầy mộng mơ bỗng chốc nhường chỗ cho bom đạn và đau thương mất mát. Khi trở về, tóc đã điểm bạc, lòng người cũng đã in hằn dấu vết thời gian, khi ông bà, mẹ cha đã về với miền mây trắng.

Có những buổi chiều, tôi lặng lẽ đi trên triền đê, ngắm nhìn đàn trâu gặm cỏ, thả mình vào cánh đồng quê nhà, hà hít hương thơm đồng lúa. Bất chợt nghe trong gió đồng vọng lại tiếng ru xưa:

“ Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Những câu ca ngắn mà thấm, thầm chứa sự dạy dỗ, giáo dục có khi lại nhẹ nhàng như hơi thở quê hương:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Ngày xưa tôi từng lặng người đi, khi nghe mẹ tôi hát:

“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”

Lời ca vừa lãng mạn vừa sâu sắc, như vẽ ra trước mắt tôi hình ảnh quê hương thơ mộng mà êm đềm. Giờ đây mỗi lần nhìn đàn cò trắng bay phất phới trên nền trời, tôi lại thấy thấp thoáng dáng hình bà lưng còng dưới mái nhà tranh, tay quạt nhẹ, miệng khe khẽ ngân ca lời ru. Tôi nghe mà đến nao lòng.

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”

Để rồi hồn tôi như lạc vào miền ký ức tuổi thơ trong lời ru của bà của mẹ khi hoàng hôn buông xuống. Trái tim như thắt lại, như nghẹn lời, khi nghe tiếng loa phóng thanh của làng vang lên bài hát “Quê Hương ”của nhà thơ Đỗ Trung Quân cất lên:

“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Phải chăng, có những điều tưởng chừng như nhỏ bé – một lời ru, một bóng dáng, một cánh cò – lại hóa thành ký ức lớn lao, nâng đỡ đời ta vượt qua giông bão. Chiều nay, về quê tìm lại ký ức xưa, để được sống lại trong lời ru của bà, của mẹ để rồi trái tim mình thêm một lần nữa được thổn thức nơi quê nhà yên bình…

Đường Xuân Hùng