Các truyền thống văn chương đang tồn tại và chi phối việc đọc, viết ở Việt Nam theo cách nào, khi lịch sử mang lại nhiều đứt gãy và toàn cầu hoá mang lại nhiều giao thoa? Cuộc trò chuyện với nhà văn Đức Anh Kostroma (Vũ Đức Anh), người nhận giải thưởng “Tác giả Trẻ” năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết “Nhân sinh kép: Sống hai cuộc đời”, đã khơi gợi nhiều suy tưởng thú vị quanh câu hỏi đó.
***
Trong một trao đổi gần đây, anh viết: “Tôi không nghĩ rằng hai từ ‘literature’ của phương Tây và ‘văn chương’ của Việt Nam nói về cùng một điều. Nhưng ít nhất nó có nét giao”. Theo anh, khác biệt đó và vùng giao đó là gì?
Nhà văn Đức Anh: Để trả lời câu này, phải kể nhiều câu chuyện, viết một vài tác phẩm. Còn ngắn gọn, tôi thường suy nghĩ nhiều về khái niệm văn chương. Thật ra thì đó hoàn toàn có thể là một thứ suy nghĩ vô ích. Nhưng cũng có những văn chương cả đời để giải quyết một câu hỏi đó. Tôi nghĩ trong nhóm các nhà văn như thế có Miguel De Unamuno – một người viết những câu chuyện mang tính “hiện sinh” từ rất sớm trước khi các ngôi sao của chủ đề này xuất hiện ở Pháp, có Jorge Luis Borges, có Samuel Beckett, có Linda Lê, có Nguyễn Huy Thiệp, thậm chí cả Nguyễn Thị Hoàng – như trong Nhật Ký của Im lặng… nhiều lắm, bỗng dưng tôi thấy dường như nhà văn nghiêm túc nào ở trong thời hiện đại cũng như thế. Nhưng cũng có những nhà văn trả lời được luôn từ ngay tác phẩm đầu: Murakami trong những trang đầu “Lắng nghe gió hát”, nói – đại ý, văn chương là đo khoảng cách giữa ta và thực tại, tức không gắn mình vào cái gì cả: cố gắng xếp ra, bày ra, kiểm kê lại thực tại, kiểm toán tất tần tật những gì ta đang có, gồm cả chính ta.
Văn chương là gì? theo tôi là một dẫn luận nhiều hơn là một câu hỏi. Nếu như nhìn nó như một câu hỏi, nó dễ dẫn đến tán tụng mang tính khái niệm luận. Tôi nghĩ một “khái niệm” thì gồm trong ấy niềm tin (nếu không muốn nói là đức tin), nếu bạn gọi một giống vật biết trèo cây và săn mồi, là một con báo, thì đó không phải chỉ là nhận thức luận, mà nó còn là niềm tin của bạn vào tương quan giữa cụm từ đó và điều mà từ đó nói. Bên cạnh đức tin còn có ham muốn nữa. “Mới hay tiền định chẳng lầm / Đã tin điều trước ắt nhằm điều sau” (Truyện Kiều). Có thể so sánh như sau: mỗi một từ là một tín ngưỡng.
Một lần tôi đưa rất nhiều tác phẩm lớn của văn chương phương Tây cho một người bạn viết – cũng khá có thành tựu – anh này bảo: “Cũng hay. Nhưng ở Việt Nam, mọi thứ không dễ hiểu thế. Văn chương đối với Việt Nam giống như một con chim nằm trong tay kẻ khác. Nếu ta nói nó còn sống, hay nói nó đã chết, đều phụ thuộc vào kẻ kia”. Có lúc tôi từng nghĩ: bất kể là các tác phẩm lớn trong các truyền thống văn chương Anh ngữ, nhưng một số truyện của văn học Anh thời Edward thì có gì đó ngây ngô, với một độc giả Việt Nam – nhất là các độc giả đã sành đời. Ẩn dụ này rất gợi ra các triết lý súc tích của Nguyễn Huy Thiệp (chẳng hạn “Chữ nghĩa nó có ma đấy” trong Giọt máu hay “Triết học là cái vòng trên cổ chị Sinh” trong Không có vua).
Trong Giọt máu – đây có lẽ là câu trả lời của Nguyễn Huy Thiệp cho khái niệm văn chương: đó là lịch sử của một gia đình, dù làm nhiều nghề, nhưng đều xoay quanh chữ, với những biến động khủng khiếp về thân phận và đạo đức. Chữ là cái gì đó người ta vừa kính ngưỡng và vừa khinh bỉ. Tức là bên cạnh niềm tin, bên cạnh ham muốn, còn có cả những mặc cảm nhất định, cả những niềm khoái cảm lẫn mê hoảng. Tôi nghĩ cụm từ “văn chương” ở Việt Nam – ở đây là nói trên cảm giác của tôi về cách hiểu chung – đã lôi vào trong đó những cái nằm ngoài literature, trong đó những ý niệm (notion) về “chữ” (chữ nghĩa nó có ma) của Nguyễn Huy Thiệp qua Giọt máu rất gần, nó liên quan đến cả những tâm linh, thân phận, sự tiến thân. Có lẽ là do lịch sử và tính cách đặc thù của Việt Nam. Chữ nghĩa có ma, là để đối lập với “chữ nghĩa” có thiêng – tiêu chuẩn thiêng của chữ thánh hiền trong truyền thống Trung Hoa hay chữ nghĩa tinh diệu trong “Văn tâm điêu long”. Đương nhiên, riêng khái niệm literature hay tiểu thuyết cũng hoàn toàn khác nhau, thời Cervantes – thì Novelas (tiểu thuyết) có ý nghĩa khác với thời của Unamuno.
Nói điều này không phải để làm một cuộc thảo luận, một cuộc định nghĩa… mà là để nhận thức tình thế của người sáng tác, của một người Việt Nam viết văn.

Khi bàn về sự đọc, anh từng nói: “Viết là nghe chứ không phải là nói, và trong một thời đại của sự nói (mạng xã hội, livestream) thì lại càng như vậy”. Và một lần khác: “Sự đọc được mở rộng một cách có tổ chức, khi đó ta nhận ra rằng, văn chương – cả đọc và viết – cần phải đặt mình vào một truyền thống (dù là để nối hay rời) và tìm mình trong truyền thống”. Vậy (các) truyền thống đó chính xác là gì? Người đọc Việt Nam có thể tiếp cận truyền thống theo những cách nào trong bối cảnh Việt Nam hiện nay?
Nhà văn Đức Anh: Ý thứ nhất chính là tôi muốn nói về cảm giác của mình về cái “tâm linh” của chữ. Đọc nhiều nhà văn Tây, như Joseph Roth, thỉnh thoảng ta thấy nhà văn nhảy khỏi ngôi thứ ba số ít. Như trong quyển Job, có những đoạn tôi cảm giác như nhà văn vừa kể, vừa nói vào mặt nhân vật, đó là những đoạn vô cùng tinh diệu. Đó là hiển ngôn của những cuộc đối thoại ngầm, dai dẳng trong các cuốn tiểu thuyết: nét hài hước, những nhử mồi, cả những thỏa hiệp lẫn kháng cự độc giả… Nhà văn hầu chuyện với độc giả và cả nhân vật qua câu chữ, những cũng nghe độc giả và nhân vật qua những khoảng trống văn bản.
Truyền thống là gì? Đó là sự sáng tác dựa trên một dòng chảy của đọc – viết nối nhau qua thời gian của các lớp nhà văn, khăng khít đến mức nó tạo ra một chân dung rõ rệt của một nền văn học (và không phải quốc gia nào cũng có nền văn học).
Muốn tìm một ví dụ về tính truyền thống văn chương, có thể nhìn sang văn chương Anh (vậy là truyền thống còn dùng để tham khảo đối chiếu): đó là chỗ mà E.M Forster trong tập tiểu luận “Các khía cạnh của tiểu thuyết”, làm phép so sánh. Đại ý, văn chương có một trục thời gian khác với thời gian sử tính hay thời gian cơ giới: ta phải tưởng tượng các nhà văn đang ở cùng một căn phòng, họ xem nhau viết, và viết để hồi đáp nhau. Tôi đọc sách thì thấy hình ảnh ẩn dụ về căn phòng được dùng rất nhiều lần trong những năm đầu thế kỷ XX ở văn học Anh, như ta biết tập tiểu luận Căn phòng riêng của Virgina Woolf, nhưng còn rõ hơn cả là trong Mr Bennett và Mrs Brown – đó có thể là do cái cảm giác trực tiếp của người Anh về truyền thống của họ, một truyền thống dài và liên tục, trên nhịp đi của báo chí, tiểu luận, đối thoại… của một quốc gia có lịch sử ổn định hơn nhiều so với phần còn lại của thế giới. Ta rất dễ nhận ra “đặc trưng Anh” trong một quyển tiểu thuyết.
Truyền thống của văn chương Việt Nam, thì có nhiều biến động hơn, do đặc điểm lịch sử của chúng ta. Đi kèm với đó là nền xuất bản – nếu nói vo trong một thế kỷ đi – liên tục đứt gãy. Nhưng theo thiển ý của tôi, ta không có cách nào khác là cố gắng tìm đọc. Cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu, đơn vị xuất bản có thực lực, đã phần nào mở đường cho những người viết, bằng cách tái dựng truyền thống. Song, không gì bằng nỗ lực tự thân của một người đọc. Có những truyền thống tốt và có những truyền thống không tốt, có những truyền thống để chúng ta tìm vào trong đó những người bạn tinh thần, và cũng có những truyền thống sẽ phải thiện chí mà chào tạm biệt.
Một câu viết của ta có thể có một ý của Nguyễn Huy Thiệp, một chữ của Lưu Quang Vũ, một dấu phẩy của Nhất Linh, một tu từ của Nguyễn Tuân… Xét cho cùng ngôn ngữ này là ta mượn của cộng đồng. Thế nên người ta mới làm thơ: thơ có lẽ bản chất của nó là né và chống những dấu vết đó. Làm tươi lại ngôn ngữ. Nhưng truyền thống luôn hiện diện và luôn đẩy ta đến chỗ nhị nguyên luận (nhị nguyên luận đầu tiên: có hay không truyền thống, nhị nguyên luận thứ hai: theo hay chống truyền thống).
Riêng tôi, sự viết là xác lập một thế giới riêng, nhưng gồm trong đó điều ta lấy được từ bên ngoài, hành động của tôi là: đối diện truyền thống và sử dụng nó.
Theo anh, mối quan hệ giữa người đọc/ viết trung bình ở Việt Nam với (các) truyền thống đã thay đổi thế nào qua từng thế hệ? Những bối cảnh nào đã tạo nên sự đứt gãy đó? Bối cảnh hiện nay mở ra những ngã rẽ nào để chọn?
Nhà văn Đức Anh: Câu hỏi này có lẽ là quá lớn, cần nhiều sự đọc, lặn lội tìm kiếm (và giữ khoảng cách, quan sát trong nhiều năm) mới nhìn ra được toàn cảnh của nó. Trước năm 1930, ở miền Nam có rất nhiều tác giả viết tiểu thuyết theo lối phương Tây, hẳn bạn sẽ bất ngờ nếu đọc “xã hội tiểu thuyết” của những nhà văn như Biến Ngũ Nhy, Nguyễn Trọng Quản, Phú Đức hay Nguyễn Chánh Sắt, các tác phẩm trên tờ Công Luận Báo, Nông Cổ Mín Đàm… Bạn sẽ thấy ngay, nó có gì đó từa tựa truyện phương Tây, một chút của Somerset Maugham, nhưng lại một chút của tiểu thuyết tân kỳ Trung Quốc. Đó là hình ảnh của một nền văn chương quốc ngữ đang học từ nước ngoài – trong nỗi ngạc nhiên, háo hức, xen lẫn cả vội vã – rất giống văn học và báo chí Nhật (thời Minh Trị) và Trung Quốc (thời Dân Quốc) cùng thời. Đó là một vận động vô cùng lành mạnh, khỏe khoắn, nhưng sớm kết thúc, và sớm trở thành dòng chảy ngầm: một vài yếu tố biến mất – cái sự sôi nổi tình ái thị trường, nét tài tử hài hước của thứ văn chương có đông đảo độc giả, một vài thứ còn giữ lại – theo tôi, là cái “gờm gờm” nhìn vào vực thẳm của đời sống xã hội, thậm chí nhỏ nhặt như một số từ đơn, một số cách tả, kể – có thể đã sống lại trong các tác phẩm của nửa thế kỷ sau đó, như ở những nhà văn như Viên Linh hay Hoàng Hải Thủy. Nhưng sẽ quá sớm để nói các truyền thống như thế có thật hay không, và nó đứt gãy ở đâu, hay nó có thực sự đứt gãy chỉ vì biến động lịch sử, hay còn vì những yếu tố nào khác.
Bây giờ ta có đọc các tác phẩm đó không, nếu không cần biết đến ngữ cảnh của nó? Chắc là không. Ta còn thấy xa lạ với những màn nhảy đầm, các bông đùa kệch cỡm, những ông bạn đẹp, những tay ma cà bông của một thời. Nhưng nếu thấy được nó, trong truyền thống, trong ngữ cảnh, ta sẽ không chỉ hiểu nó, mà còn hiểu chính mình.
Sự thấy truyền thống giúp ta làm một việc: nghi ngờ, và biết nhìn vào cấu trúc nền của thế giới xung quanh. Một từ ta đang dùng, một ý nghĩ ta đang khởi, không tự nhiên mà xuất hiện, nó có lịch sử của nó, quá khứ của nó. Nói đến đây, tôi nhớ là tôi rất thích cách mà những người mẹ nông thôn hay nhắc “anh uống nước đi” để cảnh báo là câu chuyện đến đây đã dài, khách nên biết ý mà về.
Tất nhiên điều này thật phức tạp, nhưng tôi nghĩ, chân lý chỉ dành cho những người lao động nặng nhọc.
Anh nghĩ sao nếu ai đó nói rằng “không có các truyền thống, chỉ có các diễn giải về truyền thống”? Và rằng không có diễn giải nào hoàn toàn vô tư?
Nhà văn Đức Anh: Rất thú vị, và rất giống như câu, “Không có tôi, mà chỉ có diễn giải về tôi”. Về đề tài này, quả thật là quá nặng với tôi. Tôi chỉ là người viết văn. Vậy thì, nếu có thời gian và ham tìm hiểu, bạn đọc có thể đọc Invented Tradition (Những truyền thống được sáng tạo ra) của E. Hobsbawn – một tập tiểu luận do Hobsbawn và các cộng sự chủ biên. Nhưng trước đó, là Wahrheit und Methode (Sự thật và phương pháp) của triết gia Đức Gadamer. Ta nói về truyền thống, thì sẽ thường có định kiến gắn với hai khái niệm: “quá khứ” và “cổ điển”, với các giả định là có một cái gì đó đúng đắn, nguyên thủy, vượt thời gian, khiến chúng ta phải tuân phục; ta luôn giả định rằng nó liền mạch, không đứt quãng, không có những thứ mới đã nham hiểm trà trộn vào, ở một đoạn nào đó. Nhưng những gì quá khứ, cổ điển thì vẫn còn trong hiện tại, nó chính là chúng ta bây giờ, nó làm nên chúng ta theo những cách không thể chối bỏ. Nhìn truyền thống chính là diễn giải về truyền thống.
Bản thân diễn giải về một truyền thống cũng có… truyền thống: một thuật ngữ của Gadamer – Wirkungsgeschichte (Lịch sử hiệu ứng) – ý nói, chúng ta không tiếp cận quá khứ từ một vị trí trung lập, sẽ chẳng có khách quan nào cả. Chẳng phải người ta luôn đứng trong một truyền thống diễn giải và tiếp nhận cụ thể, và chính truyền thống này định hình các định kiến và kỳ vọng của chúng ta? Ý thức về lịch sử hiệu ứng có nghĩa là nhận thức được rằng sự thông hiểu của chúng ta về quá khứ luôn bị ảnh hưởng bởi lịch sử của những diễn giải và tác động trước đó.
Còn về quan điểm của những người như Emerson hoặc Thoreau, vốn xem nhẹ việc tiếp cận truyền thống hơn việc “trở về” với bản thân, trực giác hoặc tự nhiên?
Nhà văn Đức Anh: Tôi thử học cách miêu tả theo biện chứng pháp cơ bản xem nhé: có một đề, một phản đề và sau đó là một tổng đề. Biện chứng pháp nghĩa là một đối tượng được hình thành dựa trên những vận động lịch sử, một khái niệm được “nạp đầy”, sau đó nó gặp phải phản đề, đến khi phản đề này đầy, một tổng hợp mới ra đời.
Vậy thì, tồn tại của một thứ gì đó, rất có thể nằm ở bước thứ nhất, bước thứ hai hoặc bước thứ ba của biện chứng pháp. Như Emerson và Thoreau – hai người này là hàng xóm cùng khu Concord (bang Massachusset) với Louisa May Alcott và Nathaniel Hawthorn, hai nhà văn vô cùng truyền thống, thì câu hỏi cần đặt ra là, Emerson và Thoreau là tạo ra truyền thống mới, hay là đang chống lại truyền thống cũ? Nếu vậy, ta có thể xem bài diễn văn của Emerson mang tên “The American Scholar” (1837) tại Cambridge: ca ngợi con người tự nhiên, linh hồn khoái hoạt, linh động, bình luận về sự trị vì của sách vở. Thường xuyên nhất, chính Emerson lại là người trích dẫn lắm nhất, Shakespeare, Chaucer, hay một nhà văn – mà theo Emerson đã bị lãng quên – Emanuel Swedenborg. Trở về với trực giác là lời hiệu triệu của rất nhiều nhà văn, triết gia, dường như cứ vài chục năm một lần, nhưng là sự trở về đặt mình trên truyền thống để tìm cách đứng ngoài truyền thống. Lại nói, ở một số khía cạnh không tốt đẹp, đôi khi đó là cách biện minh cho sự ngại tìm hiểu, hoặc coi thường quá khứ: tôi viết hay vẽ vì cảm xúc ấy mà, hoặc tôi làm từ cái bên trong tôi chứ không phải từ cái tôi học được.
Bản thân Don Quixote của Cervantes là một sự viết chống lại các tiểu thuyết phiêu lưu bợm nghịch lớn của Tây Ban Nha (như Lazarillo de Tormes, hoặc nhất là Guzman de Alfrache). Nhưng tập truyện ngắn Novelas Ejemplares (Tiểu thuyết mẫu mực – Cervantes) thì lại không phải, Novelas Ejemplares là hình thức chưa từng có, nó vô cùng trực giác. Nó tìm cách nương mình trong kiểu truyện ngắn có truyền thống từ Ý (Tây Ban Nha vốn không có truyền thống truyện ngắn tính đến thời điểm ấy): Mười ngày của Boccaccio, Piacevoli notti của Straparola – những dạng truyện được chuyển ngữ ở Sevilla từ trước đó nhiều thế kỷ; nhưng mượn cái vỏ để né sự nghiêm túc sẵn có, mà đưa vào đó tính linh hoạt, tức cười mà Cervates yêu mến từ đam mê sân khấu của ông.
Vậy thì, cái gì là tự nhiên đột khởi và cái gì là nương nhờ truyền thống? Rất nhiều nhà văn lớn đã vô cùng “tự nhiên” mà không cần phải tuyên bố cho tự nhiên. Dòng chảy sáng tạo, bản thân nó bao giờ cũng là trào vọt, vươn vút đột khởi từ lịch sử của một cá thể hay một tập thể, một lần và mãi mãi không làm lại được; và đó chính là điều hấp dẫn nhất của lịch sử văn học.
Nguyễn Vũ Hiệp (thực hiện)














