Cuối cùng, chúng tôi cũng gặp được một ngôi nhà, rất lạ lùng, như một cái chòi, nằm tách biệt sâu trong hẻm núi. Giữa các mái rừng gấp khúc, đổ xuống một con khe toàn đá. Cây rừng che kín mọi lối, che cả con đường gãy gập từng đoạn, in mờ dấu chân dưới lá khô. Nhưng nó vẫn hiện lên dưới con mắt trinh sát lạc đường của chúng tôi. Ngôi nhà như thể cố tình đi trốn. Trốn mưa trốn nắng. Trốn cuộc chiến tàn khốc ngoài kia. Trốn bom rơi đạn vãi. Trốn kẻ địch đi càn. Và rất có thể, nó còn trốn cả con người…
  Dẫu sao, có một ngôi nhà dù đơn sơ thế nào, lúc này, với chúng tôi là cả một thiên đường. Đã hai ngày hai đêm, chúng tôi không chợp mắt, không có cái gì vào bụng. Người ngâm ngập trong bùn nước. Bươn trong sình lầy, trong đỉa đói, muỗi mòng, rắn độc. Căng nhức thần kinh. Trong tiếng rền rú, xiết xoáy tơi tả của lũ máy bay trực thăng chơi trò đuổi bắt, giữa cánh đồng sâu chỉ mọc rặt sen súng, năn lác. Và cả trong tiếng pháo giàn sấm gầm chớp giật, chụp xuống như mưa phía dãy Yên Ngựa. Cuối chiều hôm sau, ba chúng tôi cũng trườn được lên một triền đồi, nương rẫy hoang hóa từ lâu. Chỉ còn cây dại lưa thưa. Lịm lả người. Rã rụng tay chân. Thoi thóp lồng ngực. Hoa cà hoa cải đáy mắt…
Sau chừng ấy thời gian, chừng ấy săn đuổi, chừng ấy bom đạn, chừng ấy căng tức, kẻ địch cũng chán chường lơi lỏng. Pháo chỉ bắn cầm chừng, vu vơ dọc triền núi võng chùng hình Yên Ngự, nơi chúng nghi con đường cộng quân rút lui. Lũ trực thăng cán gáo cũng thôi láo liêng rượt đuổi vô vọng trên đầm lầy không người, đã bỏ đi. Cũng có thể chúng nghĩ, trung đội Việt cộng ấy đã tan xác trong thiên la địa võng đạn pháo, trên dãy núi ấy. Hoặc nữa, đã vùi thây dưới bùn sâu đầm lầy, nếu chúng cả gan chọn lối ấy…
Thực ra, nhóm trinh sát chúng tôi chỉ có ba người, do trung đội phó Mạnh chỉ huy, dẫn theo tôi và anh Bun. Bun tuổi ba mươi, đã kịp cưới vợ trước khi vào Nam. Anh Mạnh tuổi ba lăm, có vợ và một con gái. Chỉ còn tôi là chưa mảnh tình vắt vai, nhập ngũ khi đang học năm cuối trường đại học. Chúng tôi được lệnh trinh sát cứ điểm 312, địch gọi đồn Thủ Rồng, nằm trên trục chính con đường rừng qua dãy Yên Ngựa về đồng bằng. Không hiểu sao, dãy Trường Sơn vào đến đây, bỗng có một nhánh con nhanh chân chạy xuống đồng bằng. Dài gần chục cây số. Như con mãng xà oai dũng, hung tợn lao về phía biển, mình gồng lên những rừng xanh, núi thẳm, lèn đá xây thành. Có một khoảng lưng núi chùng võng xuống, dài hàng dặm. Cây rừng cao bạt ngàn, che phủ con đường mờ dấu chân có từ vạn cổ. Cư dân các làng dưới xuôi đi gỗ, mây song, lá nón đều qua lối này. Quân lính giải phóng, cán bộ công tác, cũng theo đó về đồng bằng. Tiếp giáp hai bên sườn núi đổ xuống, là mênh mông đầm sâu ngút ngát sen sú hoang hóa. Hết đầm sâu dần về làng mạc là ruộng cạn, với bạt ngàn đồng xanh ngô lúa trải dài tít tắp…
Trên đỉnh Thủ Rồng, một vùng đất khá bằng, cây rừng và đá núi chen chúc lô nhô. Trời vô tình, tạo thế đắc địa cho một cứ điểm quân sự chiến lược trong vùng. Từ đây, có thể bao quát một vùng rộng lớn hàng trăm cây số chiều dài, với những làng mạc thôn quê, những tụ điểm phố xá, và mờ xa mặt biển xanh màu trứng sáo…
Bộ đội ta gọi đó là Cao điểm 312. Kẻ địch gọi đồn Thủ Rồng, người dân gọi đồn Yên Ngựa. Vì nó nằm cuối cùng của dãy Yên Ngựa nhoài về phía biển. Cả hai phía, ta và địch, không thôi giành giật nhau chiếm cứ. Với ta, giữ được cao điểm, là giữ được con đường xuôi xuống đồng bằng, tiến ra phía biển, xây dựng cơ sở và tiếp nhận vũ khí đạn dược của những đoàn tàu không số. Với địch, giữ được đồn Thủ Rồng, là chặt đứt con đường thọc sườn hiểm yếu của đối phương, và làm bàn đạp đánh lên căn cứ Việt cộng ở các cánh rừng xa…
Yên Ngựa, chưa một ngày im tiếng súng, chưa một giờ vắng bóng quân. Của cả hai phía chiến tuyến. Có giai đoạn, ngày địch đổ quân, lập bót. Đêm ta đánh chiếm, san phẳng. Cuộc chiến dằng dai đến mấy năm trời. Con đường huyết mạch ấy, đêm ta giữ, quân đi xuôi, gạo trẩy ngược. Ngày địch chiếm, máy bay săm soi, bom đạn tơi bời…
Địch bắt đầu thay đổi cách đồn trú. Quyết độc chiếm vĩnh viễn con đường qua dãy Yên Ngựa. Một chiều, sau mấy vòng mưa đạn pháo và máy bay ném bom dọn bãi, chúng đổ xuống đội quân lính dù Mỹ thiện chiến, vũ khí tối tân. Đổ xuống máy ủi máy đào và công sự bê tông đúc sẵn. Lắp ghép boong ke hoàn chỉnh kiên cố. Cuối cùng, đổ xuống ba lớp hàng rào kẽm gai, cài đặt tinh vi hệ thống bom mìn và pháo sáng. Đổ xuống cả đồ ăn thức uống. Cả những con búp bê giống hệt các thiếu nữ xuân thì…
Hẳn nhiên, ta không để kẻ địch kịp tổ chức guồng máy trấn giữ kiên cố, ngay đêm đầu tiên, một nhóm ba người trinh sát đặc công được cử đi. Trung đội phó Mạnh dạn dày trận mạc, dẫn theo Bun gan lì, và tôi lính mới nhanh nhẹn. Chúng tôi chỉ mang vũ khí đánh gần. AK báng gấp kẹp nách. Lựu đạn và dao găm cài thắt lưng. Kìm cắt thép cầm tay. Mình trần quần cộc. Ngụy trang như những con thằn lằn. Và lanh như sóc. Lẹ như nhái bén. Đầu óc thuộc lòng bản đồ chiến địa.
Mọi cái diễn ra êm lẹ. Trung đội phó Mạnh ghi chép, đánh dấu chi tiết trên tấm bản đồ vẽ sẵn như át lát bằng bàn tay. Tụi Mỹ, có lẽ có mấy chén rượu mừng công, khi xây căn cứ mới nhanh chóng mà không bị đối phương tập kích quấy phá, ngáy như bò rống trong mấy boong ke còn sực mùi xi măng tươi. Mấy tên gác trực ôm súng gà gật. Có lẽ gió miền nhiệt đới qua mênh mông đồng lúa, biến Thủ Rồng thành chiếc nôi ru, hay thành thứ thuốc lú. Cũng có thể chúng tin vào hệ thống báo động tự động tân tiến, nên lơi lỏng canh phòng. Nhóm trinh sát chúng tôi rút ra lẹ làng, lui đến đâu xóa dấu vết đến đấy…
Sự thể xảy ra khi cả ba ra khỏi hàng rào cuối cùng. Vui vẻ và cẩn trọng soát lại vũ khi mang theo, trước khi rút lui theo con đường quen thuộc qua dãy Yên Ngựa. Nhưng bất ngờ, chân anh Bun vướng phải sợi dây nối quả pháo sáng địch vùi trong cỏ. Một tiếng nổ xẹt và một tia lửa xanh bay vút lên trời đen. Một vừng sáng lạ mắt hình chóp nón, chụp xuống mặt đồi đêm. Cả ba kịp lăn xuống những gờ đất dưới chân theo bản năng. Những luồng mảnh đạn M79 vãi ra đan kín chỗ chúng tôi nằm. Phút sau, cơn mưa đạn pháo chạy dọc con đường rừng qua dãy Yên Ngựa. Ngay tắp lự, máy bay địch gầm rú bầu trời. Pháo sáng rải dày không trung. Sáng trưng mặt đất…
Anh Mạnh ra hiệu cho chúng tôi, rút lui theo phương án hai. Nghĩa là đi ngược với luồng bom đạn địch vây bủa. Trước khi lao mình xuống đầm lầy, tôi thấy máu từ bắp chân trung đội phó Mạnh chảy xuống tận gót chân. Chính anh Mạnh cũng không hay biết. Hóa ra, người vướng dây quả pháo sáng là anh Bun, nhưng người hứng hậu họa là anh Mạnh. Tôi băng vội, cầm máu cho anh. Vết thương nhẹ. Có lẽ một mảnh phóng lựu M79, vô tình bay sượt qua phần mềm bắp chân, khi anh nằm sấp.
Bùn lầy quá gối, nước ngập đến ngực, lá sen che kín đầu. Chúng tôi cố bươn đi thật nhanh, tránh xa cơn cuồng nộ bom đạn địch đang chụp xuống. Nhưng độ nửa tiếng sau, đầm lầy rộng lớn cũng không còn an toàn nữa. Chúng tôi như những chú gà con lẩn trốn trong cỏ, dưới những con mắt cú vọ của lũ diều hâu Mỹ săn tìm. Pháo sáng thay nhau treo dày đặc bầu trời. Đầm lầy mênh mông sáng rõ như ban ngày được nắng. Những vạt lá sen bị cánh quạt trực thăng bay thấp gây bão táp, vò xoáy tơi tả, đổ rạp xuống mặt nước. Vậy là, kẻ địch cũng tính đến tình huống Việt cộng vượt cánh đồng lầy. Máy may trực thăng  hổ báo rà sát thấp, xé cả nước đầm sâu. Đạn AR15 bắn như vãi trấu xuống những vùng lá sen dày xanh tốt, nơi chúng nghi Việt cộng lẩn trốn.

Tranh sơn mài: Sưu tầm

Tất nhiên, chúng tôi thừa biết trước chuyện này. Mỗi người cắt sẵn một cây năn lớn, to bằng ngón tay, dài gần một mét, làm ống thông hơi khi lặn. Có lẽ đấng cao xanh biết trước có cuộc chiến khốc liệt này, đã xui đám cây năn thân to ống rỗng mọc rải rác đầm lầy, để chúng tôi cắt làm ống thở dưới nước. Cứ theo những vệt nước sâu, nơi sen mọc thưa mà đi. Khi máy bay trờ đến, chúng tôi ngậm ống năn lặn xuống. Mặt nước lặng phắc, tịnh không một tăm hơi. Chỉ tội những lùm sen sú mọc dày, bị đạn súng máy quét nát, như ai dùng kiếm băm vằm, sát ngang mặt nước…
Ngày hôm sau khủng khiếp hơn. Tất cả như lòng bàn tay mở ngửa, không giấu giếm đi đâu được. Cánh đồng lầy cũng như nằm ngửa, trải ra mênh mông dưới ánh mắt trời. Máy bay địch như đếm được từng cọng năn bông súng. Phía núi Yên Ngựa mờ xa, tiếng đạn pháo và tiếng bom sát thương rền vang. Lũ trực thăng được đổi kíp, hung hăng và táo tợn gấp mấy lần. Cửa máy bay mở toang, nom rõ những tên Mỹ mặt đỏ lòm, tay lăm lăm AR15, mắt láo liêng nhìn xoáy xuống bùn nước đầm lầy. Đạn vãi như mưa, cắm chùm chũm xuống những nơi chúng mơ hồ Việt cộng trốn ẩn. Loa phóng thanh phát lặp đi lặp lại, xen kẽ các luồng đạn chiu chíu mặt nước, băng ghi âm tiếng Việt: “Hỡi các cán binh Việt cộng, các anh đã bị bao vây. Hãy đầu hàng đi, Quốc gia sẽ trọng dụng…”
Chúng tôi âm thầm trườn đi, như ốc sên bò trong bùn nước. Từng gang một. Tất cả lặng phắc. Chỉ ba ống năn di chuyển một chiều, giữa bưng biền ngút ngát tầm mắt. Nhằm phía cánh rừng mờ xa, đối diện với dãy Yên Ngựa, bươn tới. Trưa, chừng như mỏi mệt với sự săn lùng vô vọng, lũ máy bay trực thăng tản về ăn cơm. Cơn căng thẳng thần kinh trên trời tạm lắng, thì cơn căng thẳng thần kinh dưới nước trở nên khủng khiếp. Nắng dội những luồng lửa xuống đầu, phả hơi nóng phản lên mặt nước oi rát. Nắng soi rõ từng gốc sen ngọn súng, loi thoi từng đám năn lác. Nhìn thoáng cây lá, biết mặt đầm chỗ nông sâu. Lũ đỉa đói bơi loăng quăng nhặng xị mặt nước khi nghe thấy hơi người. Các loại rắn đầm lầy, bụng vàng mình khoanh, trườn đi lẹ êm, lưỡi như kiếm khua ngang mặt, mắt bé tí săm soi. Với lũ rắn độc, tốt nhất để yên cho chúng trườn đi, như không ai biết ai. Khiếp nhất là lũ muỗi mòng, ruồi trâu, bâu bám rầm rào đàn đàn như ong vỡ tổ. Chúng lao cả vào hai mắt, hai tai. May mà, chúng tôi kịp bôi thứ dầu chống côn trùng, trước khi lặn xuống nước, khiến những cái vòi hau háu của chúng vội co rúm lại…
Bây giờ, cơn đói mới chính thức cồn cào lên tiếng. Khi đối diện với lũ trực thăng địch săn lùng, cái đói biến đâu mắt tăm. Khi đối diện với lũ rắn độc, cái đói cũng nhường chỗ. Giờ cái đói bản năng réo sôi khủng khiếp. Cá rất nhiều, quờ tay là vấp chúng. Rùa cũng lắm, chúng bơi lặn bên mình. Nhưng không thể ăn sống được. Chúng tôi bắt đầu thử ăn bông sen còn phong kín. Hẳn là không độc. Mềm và ngon. Nhưng ngon hơn là các mầm sen vừa nhú dưới bùn. Nõn trắng. Giòn giòn. Ngòn ngọt…
Xế chiều, lũ trực thăng lại xuất hiện. Nhưng cuộc săn tìm miễn cưỡng. Có lẽ chúng đã chán chê với chuyện căng mắt nghiêng ngó sục lùng, và phát loa kêu gọi phỉnh phờ, với lũ đỉa đói và rắn nước, giữa mênh mông đầm lầy. Chẳng thấy tên Việt cộng nào mọc mũi sủi tăm ở đầm lầy này. Chúng vãi cho hết cơ số đạn mang theo, xuống một nơi vô định nào đó. Bay vòng vèo trên mặt bưng biền bao la, nhai kẹo cao su và mở radio cassette nghe nhạc.
Hoàng hôn dịu một màu nắng phớt hồng lên mé đồi, đánh thức những cái xác hai ngày ngâm nước, nhăn nheo tái bợt, rớt rụng chân tay. Sau vài giờ ngủ thiếp, những đôi mắt dần hé mở. Bất ngờ tỉnh táo trước một vòm trời úp lòng chảo sâu hút và trong veo. Vương đôi ba vệt mây trắng mỏng lang thang. Mấy cánh chim đường trường, sải cánh bay mải mốt. Một vành trăng tái nhợt, như nụ cười bị sốt rừng. Lại tựa ánh mắt cảm thông, cái nhìn độ lượng. Vòm trời quá đỗi bình yên, quá đỗi thơ mộng, như chưa hề có những ngày máy bay và bom pháo địch băm nát.
Trung đội phó Mạnh nói “Đi thôi!”, như thể chúng tôi chưa hai ngày ngâm nước bệu bã, đói ăn khát ngủ. Anh là người đầu tiên nhỏm dậy, nhưng cũng là người đầu tiên khuỵu xuống tức thì. Mặt nhăn nhó, tay khẽ ôm bắp chân trái. Hóa ra, vết thương do dính mảnh M79, sau hai ngày bươn sình lầy, giờ sưng tấy, đỏ lựng. Không thể chậm trễ hơn, anh Bun đến xốc anh Mạnh lên lưng mình, cõng đi. Mặt đất sỏi cơm mọc dày thứ cỏ chông ram ráp. Nương theo những bờ cây chu biên, dâu rừng cao quá đầu người, chúng tôi cảnh giác trước tụi Mỹ lết. Giờ này, chúng thường chia từng nhóm, la lết phục ở các ngả đường rừng đổ xuống các ấp làng đồng bằng…
Lần bước chân trong lối cỏ mờ, nhằm mái tranh nhỏ đơn độc lẩn sâu trong hẻm núi. Không biết đó là chòi canh vườn, hay nhà ở của người dân. Dẫu sao, nó vẫn như manh chiếu gặp được của kẻ buồn ngủ díp mắt. Con đường cũng cố giấu mình, mơ hồ trên lá khô, trên đá tảng, dưới tán cây đại ngàn thâm u. Dù cố bươn đến đó, nhưng đầu tôi ong ong những câu hỏi. Nhà dân, sao cố ở chốn thâm sơn cùng cốc, ma thiêng nước độc? Lại không ruộng nương cày cuốc, họ sống bằng gì? Trạm giao liên của ta, sao không có lối mòn đi lại? Hay đó là chỗ nghi binh của địch, nhằm tóm những cộng quân lạc ngũ?..

Tôi đã lo hão! Túp lều chỉ có hai người, hai ông cháu. Ngôi lều cấu trúc như nhà sàn. Chênh vênh bên khe đá. Mái lều lợp tranh đã ngả màu. Tuổi thọ khoảng vài ba năm. Trước lều có một chiếc bàn nhỏ, ván ghép đơn sơ, trung tâm của sinh hoạt cơm nước, trò chuyện. Trong lều, kê một chiếc sạp ngủ, ván sứt sẹo, chiếu trải sơ sài. Ông già khoảng tuổi tám mươi, gầy gò nhưng còn nhanh nhẹn. Cô bé ước tuổi mười bảy mười tám, xinh đẹp trắng trẻo. Mái tóc mây dày, ôm khuôn mặt trái xoan và buông chảy qua đôi vai tròn. Thu hút tâm trí chúng tôi, là đôi mắt to đen láy, sâu thăm thẳm, và dư dật cái nhìn mơ mộng tuổi xuân thì. Nhìn em, mọi khổ ải và cẳng thẳng thần kinh sau hai ngày bị săn đuổi trong sình lầy của chúng tôi, tan biến đâu mất, như chưa hề trải qua. Đến cả trung đối phó Mạnh chân sưng vù đau nhức, cũng bật ra câu nói vô thức: “Ông có đứa cháu gái xinh quá đi mất!”
Hẳn nhiên, đó là một câu cảm thán buột miệng, nhưng không phải là không ẩn chứa một câu hỏi. Nhất là hai người trong cuộc. Ông già lúng búng câu gì trong cái miệng răng đã thưa, khó nghe thấy. Cố bé thì trố mắt nhìn lên nửa giây, rồi cụp mắt xuống, chăm chú với mánh vá đang làm dở trên chiếc áo bà ba đen. Tôi có cảm giác một cái gì đang bị bung vỡ nghiêm trọng. Trước hết, không gian cô lẻ của hai sinh linh bé nhỏ, giữa rừng sâu biệt lập, ngỡ vĩnh hằng trong im lặng, bỗng chốc có thêm mấy tay đàn ông như từ trên trời rơi xuống là ba chúng tôi đây. Một chút gì lo lắng sâu xa. Một chút gì mừng rỡ mơ hồ. Một chút gì khó nói sâu kín. Một chút gì hy vọng mong manh… Tất cả chen nhau thoáng hiện trên hai gương mặt đối lập, một nua già một trẻ măng…
Tôi chợt đau thắt ở lồng ngực, cố xua đuổi ý nghĩ về tình huống éo le nhất đang mơ hồ trêu ngươi, thì ông già đã khó nhọc nói ra. “Không phải… cháu gái mô! Vợ tui đó!..” Thảy ba chúng tôi, bất giác phải níu lấy cái gì đó bên cạnh, tránh khuỵu xuống vì bất ngờ. Cả cô bé cũng thế, bật dậy như lò xo, bỏ chạy ra phía sau lều. Trung đội phó Mạnh tỏ ra là người tâm lý, anh vừa cởi thắt lưng bao đạn, vừa phân bua, như chưa hề xảy ra chuyện khó nói ban nãy. “Báo cáo chú, ba chúng tôi là quân giải phóng, bị lạc rừng…” Ông già chợt giãn nở nụ cười móm mém. Mấy sợi râu bạc lưa thưa trên chiếc cằm nhọn nhăn nheo, khẽ rung rung. Nhất loạt, chúng tôi gọi ông già bằng “chú” một cách chân thành. Nhưng riêng cô bé, cũng đành gọi bằng “em”, không thể khác! Và tuyệt nhiên, cố tránh những gì liên quan đến hai chữ “vợ, chồng” của họ.

Tranh sơn dầu: Sưu tầm

Cô bé trở lại hồn nhiên của lứa tuổi, nhanh tay giúp tôi nấu nước sôi, rửa vết thương cho trung đội phó Mạnh. Có thể do sống biệt lập giữa rừng sâu, ông già Sảo sắm tủ thuốc khá đầy đủ. Toàn thuốc Mỹ, rất hiệu nghiệm. Có cả kim tiêm, panh, kéo. Cô bé Liêm thành thạo và khéo tay như một y tá chiến trường. Anh Mạnh được rửa vết thương, tra thuốc, băng nhẹ, và tiêm kháng sinh chống nhiễm trùng. Bữa cơm tối, có thể nói là cao lương mỹ vị đối với chúng tôi. Cơm  vẫn độn khoai, nhưng thơm bùi. Lươn hang đá xào bắp chuối rừng, cá tràu nấu canh lá bứa chua thanh, cá khe kho tộ khô queo. Sáng hôm sau còn có món thịt chồn kho sả. Hóa ra, ở trong hẻm núi này, cả một kho thực phẩm trời ban. Rừng đồi thì chim chóc, muông thú. Khe thì lươn lệch, cá chình, cá lăng. Dưới ruộng thì ốc và vô vàn các loại cá tràu, cá diếc. Ông già Sảo có vẻ là tay sát chim sát cá có hạng. Thảo nào ông chọn hẻm núi thâm u này ẩn cư.
Coi ba chúng tôi là khách quý, ông Sảo bê dưới gầm sàn lên một hũ rượu màu da lươn, nút lá chuối khô. Mỗi người được rót một ly nhỏ. Rồi ông đậy lại, đem cất ngay. Mùi rượu sực lên, phả ra thơm nồng khó tả. Vừa có mùi thuốc bắc dịu ngọt, vừa có vị tanh nồng của rắn hay tắc kè núi ngâm lâu. Tôi hiểu, giữa rừng sâu ma thiêng nước độc, thứ rượu thuốc này coi như phương thuốc trị bách bệnh. Thảo nào, dù lớn tuổi, ông Sảo vẫn tinh tường hoạt bát. Được ly rượu bổ, mặt ai nấy trở nên hồng hào, linh lợi. Mắt Liêm sóng sánh cái nhìn ướt át, đa tình thiếu nữ không giấu nổi, cứ chảy hết về phía tôi. Có lẽ do tôi chỉ hơn em vài tuổi, nên em dễ đồng điệu chăng. Nhưng ông Sảo có vẻ mãn nguyện và trở nên rộng rãi bất thường. Ông cười nói giả lả, hể hả kể rằng, mẹ ông đẻ ông trong cái rổ sảo, loại rổ to đan thưa, dùng đựng khoai sắn củ, nên đặt tên Sảo. Còn vợ ông, cái Liêm, được mẹ đẻ rơi khi gặt lúa, phải dùng liềm cắt dây rốn, nên đặt tên Liềm. Nhưng khi đi học, thầy giáo không biết vô tình hay cố ý, bỏ mất dấu huyền, thành ra Liêm…
Cơm nước xong đêm rừng đã tối mịt, ông Sảo nghiêng qua nói với trung đội phó Mạnh, nhưng cố ý để mọi người cùng nghe. Như thể ông cậy là người lớn tuổi nhất, lại là chủ nhà, được cái quyền phân công. “Mấy hôm ni, tụi Mỹ lết phục rình các lối rừng, nên ta phải cảnh giác. Tui quen rừng quen lối, trực ở đây lo khi có tình huống xấu. Thủ trưởng Mạnh đang bị thương, để chú Bun chăm. Còn chú Hạnh và Liêm, hai người trẻ tuổi nhất, gác trực cửa rừng phía đông, nơi có lối mòn xuôi về các làng đồng bằng…” Anh Mạnh cho là phải, nên gật đầu ngay. Tôi thấy chờn chợn, khi nghĩ đến một mình với cô gái trẻ xinh đẹp nơi rừng đêm hoang vắng. Đưa mắt cầu cứu anh Mạnh, có ý đổi cho anh Bun. Nhưng anh Mạnh cầm bàn tay tôi, đặt lên đùi anh Bun. Tôi vội rụt tay tức thì, khi chạm phải làn da nóng rẫy của anh Bun. Anh đang lên cơn sốt…
Tôi lúc cúc bước sau chân Liêm, tay sẵn sàng khẩu AK, căng mắt dò dẫm trong bóng tối. Độ hai mươi phút sau, rừng thưa dần, và cây lúp xúp tựa rừng đồi. Thỉnh thoảng gặp những hoang cỏ bằng mảnh chiếu. Tôi cắm cổ bước theo Liêm, không biết cửa rừng ở đâu, và lối nào xuôi về đồng bằng. Đầu óc căng nhức, sợ bất ngờ gặp tụi Mỹ lết phục kích đâu đó trong các lùm cây. Nhưng ngược lại, Liêm như con chim cà lơi sổ lồng. Nhảy chân sáo, em tung tẩy đúng tuổi thần tiên của mình, tay ngắt hoa rừng, miệng khe khẽ hát. Tôi nhắc em về tụi Mỹ phục kích, em cười rinh rích, bảo là ở đây làm chi có đường về đồng bằng? Trước mặt toàn đầm lầy. Còn nói chưa hề có bóng lính Mỹ ở đây, và lúc sẩm tối em còn hái sim các mái đồi này. Thần kinh tôi dịu đi đôi chút, ngón tay rời cò súng, khi nghe em nói.
Đã gặp mặt đất bằng dưới chân, tôi hiểu là mình đang đứng ở đỉnh đồi. Trải trước mặt là mái đồi rộng xa tít, cây rừng màu thâm đen dưới trăng nhạt nhờ. Và xuôi ra mờ xa là đầm lầy sương đêm giăng dày. Bốn phía tĩnh mịch. Lặng câm. Có thể chúng tôi đã ở cách ngôi nhà hẻm núi chừng vài cây số. Thoáng nhìn địa hình, tôi hiểu chỗ này không phải nơi địch phục kích, chỉ có thể có bọn thám báo hay biệt kích nhảy dù nhóm nhỏ. Đang miên man nghĩ tình huống không hợp lý, khi ông Sảo đề nghị anh Mạnh cử người ra trực gác bọn Mỹ lết ở đây, thì Liêm bước đến giúi bó hoa rừng vào tay tôi, nói tặng anh đấy, rồi bất đồ trải tấm ni lông xuống mặt cỏ mềm. Hóa ra, Liêm đã giấu tấm ni lông đem theo trong người mà thôi không hay. Em nắm tay tôi, khẽ kéo ngồi xuống bên mình, như hai đứa trẻ chăn bò. Khúc khích cười, nói rất khẽ, khi nhìn nét mặt nghiêm trọng của tôi. “Hì hì… Không có địch, cũng không có ai đây mô, bộ đội giải phóng ạ…”
Lát sau thì em nằm ngửa, duỗi chân giang tay, tuyệt đối bình thản như một đêm picnic của đôi tình nhân. Không hề có chiến tranh. Không có chết chóc rình rập. Không có hai ngày ngâm trong sình lầy, trên đầu lũ trực thăng như diều hâu lùng sục, và pháo bầy chụp tứ phía. Chỉ có trăng thượng tuần rây màu diệu ảo bầu trời. Chỉ có rừng đêm vời vợi rì rào khúc huyễn mị thần tiên. Và sát bên mình, một nàng tiên phô hết vẻ đẹp trời ban như mời mọc. Trăng hào phóng xoa bụi phấn mỏng lên gương mặt trái xoan dịu dàng và đài các. Lên đôi mắt thẳm đen lim dim khép mở mơ màng. Lên bờ môi non tơ, hé mở nụ hoa đón đợi. Lên vằng ngực tròn đầy, nhấp nhô dưới lần vải mỏng. Lên đôi chân thuôn dài, chắc lẳn của một vũ nữ, lạc về nông quê thôn dã. Hình như ông Sảo nuôi vợ, như nuôi con chim quý trong lồng. Không cho phong trần sương nắng…
“Anh thấy… em có đẹp không?” Câu hỏi rất khẽ bật lên, làm tôi thốt giật mình. Như bị bắt quả tang đang mê man ngắm trộm. “Rất đẹp!” Tôi thật thà đáp. “Hì hì… Nếu em… chưa có chồng, anh có yêu em không?” “Có chứ! Em đẹp thế nớ, ai cầm nổi lòng?” Tôi hào hứng nói, không suy nghĩ sâu xa. Vả chăng, em đã có chồng, giờ mình ba hoa thế nào chẳng được! Chợt nhiên, một cánh tay con gái nà nuột khẽ mơn man, đỡ nhẹ tôi nằm xuống sát bên em. Mùi thơm tự da thịt con gái tỏa hương, vấn vít cơ thể đứa con trai chưa một lần động tà áo phụ nữ. Tôi ngốt ngấy, bủn rủn cả thân mình. Vừa sợ hãi, vừa lâng lâng. Vừa lo lắng, vừa thích thú. Chân tay thừa thãi, ngọng ngượng. Để yên không được, nhưng không biết làm gì. Đầu óc chếnh choáng, mị muội. Có lẽ sau hai ngày say nước, giờ tôi chuyển sang say đất…
“Anh biết không?” Lúc sau, Liêm chợt thầm thĩ rất khẽ vào tai tôi. Người em nghiêng hẳn sang tôi, tựa như muốn ôm lấy tôi. “Biết gì cơ?” Tôi thốt hỏi bâng quơ, bấn loạn cả cơ thể trẻ trai. “Em… coi như chưa…” Há..? Em nói gì, anh chưa nghe rõ? Tôi định hỏi lại, nhưng em đã thầm thĩ mơ màng, về một xứ sở nào đó. Rằng, giữa cánh đồng hai làng có một ngọn đồi cao, gọi là Cồn Đa. Nghe nói xưa có một cây đa rất to, du kích đặt vọng gác ngay chạng ba. Bọn Pháp đi càn, từ xa đã bị phát hiện. Tiếng kẻng khua ầm vang tận các làng. Chúng tức giận, đem trăm cân bộc phá lên giật đổ.
Con đường nối hai làng, như cánh cung đi qua chân Cồn Đa giờ toàn sim mua. Bỗng một hôm, mặt đất ầm ào xe cộ và lính tráng. Bầu trời rầm rào trực thăng ngược xuôi. Con đường cánh cung giữa hai làng mở rộng và rải nhựa. Cồn Đa ngổn ngang bê tông, sắt thép và dây kẽm gai. Nửa tháng sau, Cồn Đa thành cứ điểm khét tiếng, các cuộc hành quân bố ráp, bắt bớ chém giết liên miên. Viên đồn trưởng, đại úy Tư Đảm, lù lù như con gấu. Dân trong vùng gọi là Tư Khỉ đột. Trong khi lính tráng lùng bắt đàn ông trai tráng, hắn để mắt đám đàn bà con gái dễ ưa. Người thì hắn đóng cửa xực ngay tại chỗ, kẻ đem theo về đồn dăm bữa nửa tháng…
Em, mười sáu tuổi, lọ nghẹ bôi lem luốc, vẫn không qua mắt Tư Đảm.  Hắn cười khơ khơ khơ trước đám quân gia lính tráng: “Ta sẽ cưới em làm vợ! Từ rày, không đứa mô được động đến cái lông chân ngà ngọc của em!” Giọng ba lơn, nhưng ánh mắt đĩ thõa cả quyết. Vải vóc đường sữa giày dép, có người mang đến tận nhà em. Em rùng mình, nghĩ đến phải ôm ấp tên khỉ đột ấy, là chết giấc! Cha mẹ mất từ những trận càn trước, anh trai nhảy núi theo quân giải phóng. Em bơ vơ như gà con mất mẹ, trước đôi mắt thèm khát ăn tươi nuốt sống của gã diều hâu kia. Phải lấy chồng ngay! Đó là kế duy nhất thoát khỏi Tư Đảm.
Nhưng cả vùng chỉ còn ông già và trẻ nít, thì làm sao đây? Vắt óc tính kế, cuối cùng, em tìm đến ông già Sảo ở làng bên, cũng đang đơn độc một mình. “Ông già rồi! Xin lỗi, cháu đi tìm người khác…” Ông Sảo tay xua đây đẩy, như xua hủi. “Tìm ai? Ông chỉ giùm, cứu cháu với?” Ông Sảo ngúc ngắc cái đầu, gục gặc cổ họng. Em nói lẩy: “Ông không cứu, đang tâm để cháu cho thằng Tư Khỉ đột ăn thịt, răng?” Ông Sảo lặng im. Rất lung, ông khẽ nói: “Làm rứa, là không công bằng với cháu. Với nữa, chịu chi thấu miệng lưỡi người đời, hả cháu?” Em thấy những lời cuối của ông Sảo có vẻ đuôi đuối, liền dấn tới: “Cháu chịu được, ông ạ! Miễn là thoát được thằng khỉ đột ấy!” Ông Sảo vớt vát, như đặt điều kiện: “Chỉ giả đò thôi! Tội cho cháu, và cả tội cho ông nữa…” Ông Sảo khẽ lắc đầu, bất lực trước tình huống. “Cháu cám ơn ông! Nhưng… phải thật, ông ạ… Lội ra, chết cả nút!” Em quá nhỏ để hiểu được chồng vợ nghĩa là thế nào…
Đám cưới rênh rang, cỗ bàn đề huề. Khách khứa rộn rịp. Đám rước dâu xên xang đi qua trước cửa đồn Cồn Đa. Cốt để quan quân trong đồn được nghe, được thấy. Dân xóm dưới làng trên kéo đến đông đúc, hiếu kỳ xem đôi đũa lệch lạ đời. Trai ngấp nghé tám mươi, gái chớm thì mười bảy. Tân lang Sảo, áo thâm chìm chữ thọ, quần trắng guốc mộc, nói cười rổn rảng. Tay ngượng nghịu khoác hờ vai tân nương Liêm, tha thướt trong bộ váy trắng tinh khôi, đẹp rạng ngời. Hôm sau, khi trả đồ cho tiệm thuê áo cưới trên thị trấn xong, Liêm đến sống với ông già Sảo. Cả hai như vừa sắm xong vai diễn, trở về ủ dột của gánh hát nghèo.
Những tưởng được yên thân, không ngờ giông gió nổi lên đùng đùng, ngày này sang tháng khác, buộc họ phải bỏ làng chạy trốn lên chốn rừng hoang núi hiểm này. Ấy là lũ trẻ nít trong làng, hễ thấy mặt một trong hai người, là đàn lũ rồng rắn chạy theo như hộ tống. Miệng hát vang vang, lặp đi lặp lại bài vè chúng tự đặt. “Con cấy (gái) mà lấy ôông tra (già). Ba năm chín tháng đẻ ra con chồn! Ha ha ha!.. Con cấy mà lấy…”
Tôi nằm im. Lòng trào sôi những cảm xúc nhức nhối đáy ngực. Thương phận má hồng giữa nhiễu nhương đạn lửa. Liệu em có gặp được hạnh phúc đôi lứa, hay vẫn chôn vùi tuổi xuân thế này? Tất cả phụ thuộc vào con quỷ chiến tranh. Biết khi nào nó bị đánh bại? Nhiều đôi vợ chồng giả, sống lâu thành thật. Lửa gần rơm mà! Nhớ lại túp lều đơn sơ của vợ chồng họ giữa rừng, một sạp ngủ ghép ván bé tẹo, một manh chiếu trải, người tôi nóng ran…
Tưởng tôi đã ngủ, em quàng tay ôm người, chân quặp lên chân tôi. Áp đôi má nóng rực lên ngực tôi, như kiểm tra tim tôi còn đập? Tôi nằm như ngủ say từ lâu lắm, cố giữ hơi thở đều. Em yên trí, lướt nụ hôn thiếu nữ cháy khát lên tóc tôi, trán tôi, mắt tôi, rồi dừng lại đắm đuối trên đôi môi trai tráng của tôi. Đấy là lần đầu tiên tôi tận hưởng cảm giác ngọt ngào mê đắm của nụ hôn. Tôi rơi vào chốn địa đàng mông lung mụ mị. Không còn lý trí. Không còn phải trái. Quên mất hai ngày đêm ngâm mình giữa sình lầy. Quên mất cuộc chiến tranh đang hàng giờ đối mặt. Quên mất Liêm là vợ ông Sảo. Một cái gì như bản năng bị đánh thức dữ dội. Một con sư tử trẻ trai sổng chuồng!..
Tôi bật dậy như lò xo, lật ngửa em ra. Vồ vập sục sạo tòa thiên nhiên lộng lẫy dưới trăng mờ. Em hào hứng đến run rẩy, như lần đầu tiên được đón nhận, được dâng hiến…
Đôi khi tôi nghĩ lại, một cái gì như số phận. Số phận đã không cho hai chúng tôi đến với nhau. Cả đêm đó đến ngày hôm sau, khi tôi nâng xác em trên tay, và khi kịp đặt nụ hôn cuối cùng lên đôi môi đang cố mỉm cười, như em mong muốn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Em ra đi mang theo cả bí mật đời mình. Một bí mật trinh trắng thiếu nữ. Quả thế, khi chúng tôi trút bỏ áo xống, tôi tư thế sấp mặt đi vào em, thì một loạt đạn nổ ngay trên đầu. Đêm lắng, tiếng nổ rất vang. Không, đó là loạt pháo sáng địch. Trong cơn bấn loạn, tôi tưởng đạn bọn Mỹ lết phục kích. Cả vùng rừng đồi sáng trưng. Vạt cỏ chúng tôi nằm, trơ ra như giữa ban ngày. Như một cái máy, chúng tôi mặc vội quần áo, chuẩn bị chiến đấu. Hai người hai khẩu AK, áp dưới hai mô đất, chĩa về hai hướng đối diện. Mãi khi pháo sáng địch lụi tàn, ngoảnh lại, bình minh đã kịp len chân lên từng nẻo lá…
Chúng tôi vừa về đến ngôi lều trong hẻm núi, cũng gặp lúc ông Sảo xách một con chồn hương béo núc bước vào. Hóa ra, đêm qua khi hai chúng tôi quấn nhau trên đồi, ông Sảo cũng đi đặt bẫy thú. May mà ông đi sang dãy phía Đông Nam, khi chúng tôi ở dãy Đông Bắc. Hai dãy núi này như hai cái tay ngai, ôm lấy cánh đồng ruộng sâu trước mặt ngôi lều. Dẫu vậy, tôi vẫn thấy ngượng ngùng, không dám nhìn thẳng mặt ông. Trong khi Liêm nhí nhảnh cười nói như không có chuyện gì. Ông Sảo vẻ mặt còn vui hơn nữa, không biết vì thấy vợ vui, hay vì bẫy được con chồn béo đãi khách?

Minh họa: Tạ Tâm

Cơm nước xong, trung đội phó Mạnh giao mệnh lệnh, rằng tôi phải nhanh chóng vượt rừng, về báo cáo gấp kết chuyến quả trinh sát. Không để kẻ địch ở cao điểm 312 có thời gian gia cố công sự. Tôi biết việc không thể chậm trễ, trong khi anh Bun khật khừ sốt và anh Mạnh bắp chân sưng vù. Anh Mạnh vừa nói vừa đưa mắt sang ông Sảo, cố ý xin ông giúp đỡ. Ông Sảo còn sốt sắng hơn, nói ngay khi lời anh Mạnh vừa dứt. Rằng, để Liêm đi theo dẫn đường cho tôi, rằng Liêm trẻ trung nhanh nhẹn, hồi ở làng từng làm giao liên, nên thông thạo địa hình vùng rừng này…
Hai chúng tôi nhanh chóng lên đường. Mỗi người một khẩu AK. Liêm mang gói cơm nắm và bi đông nước. Tôi có thêm trái lựu đạn và con dao găm gài thắt lưng. Liêm đi trước một quãng, lanh như sóc. Hết dõi mắt về phía trước, lại quay lui nhìn tôi mỉm cười khích lệ. Trong bộ bà ba đen chít co, chiếc khăn rằn quàng vai dưới hai bím tóc tết gọn, em đẹp róng rảy và đài các. Nhớ đến hoàn cảnh của đôi vợ chồng lệch, tôi thấy lòng nao nao…
Trưa tròn bóng, rừng mùa khô lặng phắc, chỉ trào sôi tiếng ve chói chát ngày hạ. Liêm ra hiệu cho tôi dừng lại nghỉ chân. Cơm nước xong, hai đứa như lấy lại sức lực, nhưng đôi mắt riu ríu. Liêm cười nũng nịu, khẽ nói, anh Hạnh thức, cho em nhắm mắt chút xíu, hỉ? Rồi em ngả người, đầu gối lên đùi tôi, đôi mắt đẹp khép lại. Lùm cây không khác một ngôi lều nhỏ, lá che bốn phía. Không còn bóng đêm mờ ảo, tất cả hiện lên rõ nét, rất gần. Trên gương mặt trái xoan xinh tươi, một đôi môi hé mở. Hơi thở thiếu nữ phập phồng, vầng ngực trắng nõn vun đầy hé lộ sau cái cúc áo vô tình để tuột. Tôi ngất ngư như say sóng. Hình như em run rẩy. Hình như em rên lên. Hình như…
Hình như có tiếng trực thăng bay qua. Đúng là tiếng trực thăng thật. Bay khá thấp. Em giật mình, kéo tôi lao ra khoảng trống. Chiếc trực thăng bay qua đầu khá thấp, bị bóng cây khuất lấp. Em nói, bọn thám báo! Tôi chột dạ, chúng đổ quân ngẫu nhiên, hay chúng tôi bị lộ? Có cây nhiệt đới nào trên đường rừng chúng tôi qua chăng? Lát sau, chiếc trực thăng quay về. “Sao em biết chúng thả thám báo?” “Chỉ đi một chiếc, lại quay về liền, thường là thả thám báo, hay biệt kích!” Liêm đắn đo nói, xốc lại hành trang. Tôi cung cúc bước, lòng vương vất thầm mừng, thầm tiếc những gì chưa kịp xảy ra giữa hai đứa.
Rừng xế bóng khê đặc tiếng ve, khê đặc cả không khí thở. Tôi nhìn như thôi miên vào bóng người con gái nhập nhòa phía trước. Sự bình thản của em khiến tôi tự tin hơn. Thảng hoặc Liêm quay đầu nhìn lại, khẽ mỉm cười với tôi. Nụ cười mê hồn, khiến tôi phấn chấn. Gió từ thung xa, len lách tán cây, chia một phần mát mẻ cho chúng tôi. Lối đi quanh co mờ lạ rụng. Bóng em thoắt ẩn thoắt hiện, lúc gần lúc xa, như ú tim với tôi. Đôi bím tóc em ngúng ngẩy vẫy gọi. Chợt gặp một quãng rừng thưa, cây cối như dành chỗ cho những hoang cỏ mượt. Đầu óc tôi lâng lâng tuổi trẻ chăn bò. Bỗng một tràng súng liên thanh rộ bất ngờ, tiếng của AR15. Liêm giật giọng: “Nằm xuống!” Tôi tắp lự lăn xuống cạnh mô đất, súng AK hướng về phía trước. Liêm nổ một tràng AK, dõng dạc hô to: “Tất cả, xung pho… ong!..”, rồi phóng lên như tia chớp. Tôi kéo một loạt AK về phía địch, yểm trợ cho em. Bỗng nhiên, được ba bước, Liêm chợt khựng lai, loạng choạng nửa giây, rồi đổ sấp xuống. Tôi chạy đến, em khoát tay ra hiệu, hãy truy kích địch. Tôi kéo một tràng AK, phóng xuống mé đồi. Chỉ còn thấy bóng rằn ri vài ba tên lính ngụy bỏ chạy tháo thân mé đồi bên kia.
Tôi đỡ Liêm ngồi dậy, băng bó cầm máu cho em. Nhìn miệng vết thương, tôi biết những mảnh đạn phóng lựu M79 đã nằm sâu trong ngực. Mỗi nhịp tim, mỗi hơi thở nhẹ, máu cũng rỉ ra. Mặt em tái nhợt, giọng thều thào. “Em chết mất, anh ạ…” “Đừng nói gở! Em còn quá trẻ…” Tôi nói cứng, và xốc em lên vai, bước đi. Đã hai lần bên nhau, nhưng chưa bao giờ tôi tận thấy hai cơ thể chúng tôi hòa làm một như lúc này. Những gì em chưa kịp trao cho tôi, giờ em đã trao? Thân hình nóng rẫy. Hơi thở nóng rẫy. Trái tim đập loạn trên lưng tôi. Tôi bước chập choạng, không biết do đường rừng khó đi, hay bao ý nghĩ bấn loạn trong người. “Thôi, em ở đây được rồi… Anh đi đi… Phía trước là thung lũng… Độ năm, bảy cây nữa thôi…” “Không! Không bao giờ! Anh đưa em về đơn vị, trạm phẫu tiền phương sẽ mổ cho em…”
Phía trước vẫn mênh mông là rừng, ánh chiều soi thấp cao các tầng bậc lá thẫm. Vẫn chưa thấy tăm hơi đâu là thung lũng, nơi sư đoàn bộ đứng chân. Tôi cần báo cáo gấp và trao tấm bản đồ trinh sát của trung đội phó Mạnh. Không thể đi nhanh được, vì sức trai đã giảm. Và còn vì trĩu nặng trên vai là Liêm, người con gái xinh đẹp cũng nặng trĩu một số phận, đang có dấu hiệu hôn mê. Phải cứu sống em, tôi mải mốt bước theo hướng mặt trời lặn. Chợt thoảng bên tai tôi, tiếng em rủ rỉ tươi tỉnh, như không hề bị thương nặng, khiến tôi giật mình. Phải em đang ở giây khắc, ngọn đèn sáng lên trước khi vụt tắt? Lời của em giờ là lời người đã đặt một chân sang bên kia? “Anh Hạnh à…” Em nói tiếp. “Ông Sảo bố trí em đi gác suốt đêm qua với anh… và sáng ni còn bảo em đi theo anh dẫn đường cả ngày… Là có ý đấy…” Tôi ngớ người. Chưng hửng. Em nói sao?
Song em đã im lặng. Như chưa từng mở lời. Tựa thể những điều vừa nghe, là do tôi ù tai mà sinh chứng. Nhưng lát sau, lại có tiếng em thì thào. “Anh… tin không?” “Tin gì cơ?” “Là em… Là em… vẫn còn…” Hả? Lại chuyện gì nữa đây? Tôi biết em đã rơi vào mê sảng! Liền xốc vai mấy cái, như thể lay gọi, xem em còn tỉnh không. Chợt những vòng tay ôm của em đã lỏng. Và cơ thể như cố trì lên phía trước. “Anh… đặt em… lại đây được rồi…” Tiếng em yếu ớt, bàn tay trắng bợt khẽ chỉ về một hố pháo trước mặt. Tôi nhẹ xoay mình, ôm người em vào lòng. Gương mặt em chợt sáng bừng. Đôi mắt đen rợp mi sáng quắc, long lanh man dại. Đôi môi hồng tươi rực rỡ, nhoẻn cười: “Hạnh!.. Hôn em đi!..” Tôi trào nước mắt, đặt nụ hôn thắm thiết lên đôi môi còn nóng ấm của em. Em đón nhận nụ hôn của tôi, khẽ cười âu yếm. Mãn nguyện. Chợt em nấc lên, như giật mình. Máu trào ra khỏe miệng. Hai cánh tay rơi thõng…
  Tôi vừa khóc vừa đào như một cái máy. Nước mắt như mưa. Lưỡi dao găm chạm đá tóe lửa. Mặc, tôi cắn răng đào. Mở rộng cái hố pháo em chọn, về hai phía đối diện, để có huyệt mộ cho em mồ yên mả ấm, không bị thú rừng quấy nhiễu. Bất ngờ gặp một viên đá trắng, tôi đặt lên phía đầu, thay bia mộ…
Trong ánh tà dương chói lọi xuyên qua cây rừng, tôi lau nước mắt đứng lặng vĩnh biệt em. Nghiêm trang của người lính, lại luyến lưu âm thầm của trái tim mang nặng mối tình đầu…

Hữu Phương
(Bài đã đăng trên Tạp chí Sông Lam, Số 7/2020)