Ngày hội thống nhất

Ngày thống nhất đất nước (30/4) không chỉ là lễ kỷ niệm mà còn là dịp tụ hội, đoàn viên để khép lại quá khứ chia cắt, cùng nhìn lại cội nguồn, thêm trân trọng cuộc sống hòa bình, non sông liền một dải hôm nay.

Dịp 30/4 năm nay, lễ diễu binh, diễu hành lớn sẽ được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh. Nhiều người từ khắp mọi miền đất nước đã đặt vé về thành phố để được trực tiếp xem diễu binh, diễu hành hoặc chí ít cũng được sống trong không khí của ngày đặc biệt, ghi dấu Bắc Nam sum họp.

Cũng vào dịp này, đã thành thông lệ, nhiều Việt kiều, đặc biệt là các bạn trẻ tại nhiều quốc gia, rủ nhau về nước du lịch, gặp mặt người thân, kết bạn. Nhờ những dịp như thế này, người Việt sống ở mọi nơi trên thế giới quen nhau nhiều hơn, sau đó thường xuyên liên lạc, giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường hợp tác làm ăn. Với họ, hai chữ “thống nhất” theo thời gian đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành một khái niệm không cần giải thích. Có những bạn trẻ mới lớn sống ở nước ngoài chưa biết về chiến tranh và nỗi đau chia cắt trong quá khứ, nhưng thỉnh thoảng vẫn nhắc nhau về ngày 30/4 như một ngày hội, ngày Tết. Ở phương xa, không có ngày lễ chính thức thì họ giữ ngày lễ ấy trong lòng, xin nghỉ phép để về nước hoặc làm một bữa cơm ấm cúng để cả gia đình quây quần.

Gần nhà tôi có đôi bạn già đã gần 80 tuổi là hàng xóm của nhau. Hai ông thường xuyên góp đồ ăn, thức uống, sang nhà nhau dùng bữa, buổi sáng đạp xe, dạo bộ, buổi chiều ngồi đánh cờ. Ở tuổi xế chiều, thú vui bầu bạn ấy khiến họ lúc nào cũng tươi cười như thời thanh niên. Gần đây, tình cờ tôi mới biết một người từng là chiến sỹ giải phóng quân di cư từ phía Bắc, một người từng là sỹ quan Việt Nam cộng hòa quê ở miền Tây. Trên thân thể hai người đều có những vết thương, cứ gặp lúc trái gió trở trời lại đau nhức. Khi đó, họ lại chia sẻ lọ dầu, lọ cao, xuýt xoa hỏi thăm sức khỏe nhau như một cách dặn bạn, dặn mình và dặn con cháu hãy yêu quý cuộc sống bình yên, hòa hợp hiện tại.

Dịp 30/4 sắp tới, ông quê ở miền Tây sẽ rủ mấy người bạn cùng đi lính trước đây về nhà chơi, ăn bữa cơm gia đình để kỷ niệm ngày giã từ súng đạn, trở lại cuộc sống bình thường. Với sự góp mặt của ông hàng xóm, họ sẽ có thêm bạn già.

Cứ như thế, ngày hội thống nhất hay còn gọi là ngày Tết Thống nhất lan rộng dần. Dân tộc Việt Nam vốn trọng ngày Tết và theo thời gian, ngoài những ngày Tết truyền thống đã trở thành phong tục, tập quán hàng ngàn năm, có thêm những ngày Tết gắn với dấu mốc lịch sử như Tết Độc lập (ngày 2/9), Tết Thống nhất (ngày 30/4). Trong tiềm thức dân gian, Tết là lễ hội, là dịp đoàn tụ, là những ngày vui. Vì vậy, khi ghép với hai chữ “thống nhất”, Tết càng có ý nghĩa đặc biệt.

Vừa qua, trong một hội thảo với chủ đề khát vọng hòa bình, thống nhất làm nên Đại thắng mùa xuân 1975, có học giả chia sẻ: Theo thời gian, bàn tay của những thế lực lớn trên thế giới khiến các dân tộc dần bị chia nhỏ, số lượng quốc gia dần nhiều hơn để các thế lực lớn này dễ bề điều khiển nhằm mang lại lợi ích cho mình. Dân tộc Việt Nam là trường hợp hiếm hoi giữ được sự thống nhất và ngày một quy tụ rộng khắp, có sức sống bền chặt hơn. Chúng ta hãy cùng lý giải để con cháu đời sau hiểu và phát huy sức mạnh nội tại vô hình nhưng lớn lao này. Cũng nhờ vậy, hậu thế sẽ thấy chúng ta không phải thần thánh mà chỉ là những con người bằng xương, bằng thịt mang trong huyết quản dòng máu của một dân tộc đã trường tồn qua bao thử thách cam go.

Nguyên nhân quan trọng hàng đầu cho sự bền chặt của dân tộc Việt Nam có lẽ vì ý thức gia đình luôn hiện hữu trong văn hóa để cả dân tộc xem mình là một gia đình. Hiếm thấy dân tộc nào trên thế giới có ngày giỗ tổ, có truyền thuyết nhưng đã thành câu chuyện dân gian gần gũi lan truyền khắp nơi: Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm con tỏa về mọi miền dựng nghiệp. Với câu “tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”, người Việt đã xem Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có công ba lần đánh tan quân Nguyên là cha và thánh Mẫu Liễu Hạnh có công cứu giúp nhân dân là mẹ. Và rồi người Việt cũng gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác, quân đội gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là anh cả.

Những danh xưng cha, mẹ, bác, anh… là biểu hiện cụ thể của ý thức về một đại gia đình đã âm ỉ nhưng mạnh mẽ lan tỏa trong dòng máu mỗi người Việt hàng ngàn năm nay. Ý thức ấy có sức mạnh quy tụ và phản kháng vô hạn. Một số Việt kiều tâm sự, họ thích theo dõi một chương trình ca nhạc tại hải ngoại vì chương trình luôn xưng hô: “cô, chú, anh, chị, em…” như trong gia đình khiến họ cảm thấy xa nước mà ngỡ đang sống trong nước với tổ tiên, dòng tộc.

Việc UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2012 là một cột mốc quan trọng khẳng định tầm vóc, ý nghĩa của tín ngưỡng này đối với thế giới. Nhưng giá trị sâu sắc của phong tục thờ tổ đã thực sự tỏa sáng từ nhiều thiên niên kỷ trước. Ngày nay, một cách tự nhiên, những ngôi đền thờ Hùng Vương đang tiếp tục được xây dựng trên mọi miền của đất nước, từ Bắc chí Nam đến quần đảo Trường Sa. Trước 1975, người Sài Gòn cũng đã lập đền Hùng ngay tại trung tâm thành phố, với nghi lễ như đền thờ tổ ở Phú Thọ.

Khi ý thức về một đại gia đình bền bỉ, len lỏi như mạch ngầm không bao giờ cạn thì hai chữ “thống nhất” không thể bị xóa nhòa. Và khi hai chữ “thống nhất” đã trở thành ngày hội non sông thiêng liêng, ngày Tết truyền thống thì đất nước này thống nhất là lẽ tất yếu. Bởi lẽ, thống nhất trong lòng người là điều kiện tiên quyết, bền vững cho việc thống nhất lãnh thổ và những phương diện khác.

Phạm Cường