Chân dung nhà thơ Anh hùng Nguyễn Đăng Chế. Ảnh: Võ Khánh
Đã từng trải qua những lễ “truy điệu sống” khi xung phong chỉ huy “con phà cảm tử” qua sông Lam, sống chết với dòng sông nhằm đảm bảo mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường miền Nam; từng từ chối làm hồ sơ phong Anh hùng vì chứng kiến bao nhiêu sự hi sinh của anh em, đồng nghiệp quanh mình mà “họ chắc chắn can đảm hơn tôi, hi sinh nhiều hơn tôi”- người Trưởng phà Bến Thủy những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt Nguyễn Đăng Chế, giờ là nhà thơ bình dị Nguyễn Đăng Chế đã ngoài tuổi 80 vẫn đinh ninh dặn lòng phải sống làm sao cho đúng: “Cao sang hai chữ làm người”.
Tuổi trẻ sáng ngời trong lửa đạn
Đầu những năm 60 của thế kỉ trước, chàng trai trẻ đất lúa Yên Thành vượt cái nghèo để theo trọn con chữ tại Trường Trung cấp Giao thông Vận tải ở thủ đô Hà Nội. Những củ khoai, những bao gạo được cha mẹ gửi ra, cậu biết, đó là mồ hôi, nước mắt và là cả khát khao, hy vọng cha mẹ dành dụm, gửi trao. Cậu không sợ đói, không sợ khó. Cậu thấu hiểu cái đói, cái khó triền miên của thời đất nước đang còn quá nghèo, nhưng đồng thời làm hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt. Cậu chỉ sợ mình không đủ quyết tâm biến khát khao, hy vọng của mẹ cha thành hiện thực. Cuối cùng cậu đã có quà khoe cha mẹ: tấm bằng tốt nghiệp trung cấp giao thông vận tải.
Người cha của Nguyễn Đăng Chế là một cán bộ ngành văn hóa rất nghiêm khắc với con cái. Ông thường răn dạy các con: “Làm người phải sống nhân đức, biết thương người, không dọa nạt, ức hiếp kẻ yếu hơn mình”. Ông và 6 anh chị em đã “lớn lên” đúng như cha đã sống và dạy bảo.
Tháng 7/1964, tốt nghiệp xong, chàng trai trẻ Nguyễn Đăng Chế đầu quân về Ty Giao thông Nghệ An và bắt đầu hành trình lăn lộn khắp các cung đường. Bấy giờ chuẩn bị cho việc đối phó chiến tranh chống Mỹ lan rộng ra miền Bắc, tỉnh Nghệ An chủ trương khảo sát các tuyến giao thông thủy, bộ. Ông được giao nhiệm vụ đi khảo sát kênh Nhà Lê; rồi vùng miền Tây để mở đường từ Mường Xén sang Lào. Đói, khổ, rét thấu xương, nhưng chàng trai trẻ vẫn hào hứng với từng con số đo đạc, từng hình dung về đoạn đường, cây cầu sẽ được dựng xây. Nhận thấy sự nhiệt huyết và năng lực làm việc của ông, sau 3 năm công tác ông được cử làm Đội trưởng Đội Khảo sát đường sông. Đầu năm 1968, trước tình hình Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, tỉnh đã thành lập Đại đội Rà phá bom từ trường và ông được cử làm Đại đội trưởng, thực hiện nhiệm vụ rà phá bom trên sông Lam đoạn từ Bến Thủy lên đến bến đò Vạn Rú (xã Khánh Sơn, Nam Đàn cũ). Tháng 9/1969, chàng trai trẻ 27 tuổi lại được giao trọng trách Trưởng Phà Bến Thủy. Đó là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Ông phải lãnh đạo một đơn vị đã từng là Anh hùng, một tập thể của những con người tài ba quả cảm; và thực thi một nhiệm vụ hiểm nguy – biết chắc cái chết có thể ập xuống bất cứ lúc nào. Ông không ngần ngại. Bởi trong ông luôn có truyền thống yêu nước từ trong gia đình làm bệ đỡ.
Ông luôn khắc ghi trong tâm hình ảnh ông nội của mình – một nhà nho nổi tiếng đất Yên Thành – Nguyễn Thế Mỹ. Ông nội hoạt động trong phong trào yêu nước giúp cụ Hoàng Hoa Thám đánh thực dân Pháp, bị giam cầm qua nhiều nhà lao trong đó có nhà tù Côn Đảo. Năm 1939, được thả về, bị tra tấn dã man và các ngón chân bị cắt nên ông nội không đi lại được. Truyền thống yêu nước ấy tiếp tục được người cha của ông – Nguyễn Thanh Khầm tiếp nối, tích cực hoạt động cách mạng và được kết nạp Đảng từ rất sớm. Ông là một trong những cán bộ của ngành văn hóa tỉnh Nghệ An những năm 50-60 của thế kỷ XX đã có công xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ cơ sở, đi sưu tầm dân ca ví giặm, đặc biệt là dạy tuồng, dựng tuồng cho bà con vùng Yên Thành, Diễn Châu, v.v…. Nhiều thế hệ nghệ nhân văn nghệ trên toàn tỉnh Nghệ An, đặc biệt là các huyện đồng bằng với các bộ môn truyền thống tuồng, chèo, dân ca Nghệ Tĩnh trưởng thành nhờ sự phát hiện và bày dạy nhiệt tình của ông. Trong quá trình đi điền dã, ông đã sưu tầm được bài ví giặm cổ “Phụ tử tình thâm”. Ông còn là người nổi tiếng ngâm thơ hay và đoạt giải Nhất tại hội thi ngâm thơ toàn quốc. Còn mẹ của Nguyễn Đăng Chế là người đàn bà đẹp và đảm đang nổi tiếng, sẵn sàng vì chồng mà bỏ nghề dệt cửi truyền thống ở đất Diễn Châu về làm dâu vùng lúa Yên Thành rồi trở thành “vua cấy cày” (lời thơ của Nguyễn Đăng Chế). Truyền thống yêu nước và lao động miệt mài ấy luôn nóng chảy trong con người ông, hối thúc ông luôn luôn vươn tới. Bởi vậy, Nguyễn Đăng Chế không chùn bước, không sợ hãi trước nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm này. Từ trong sâu thẳm ông cũng thấy tự hào vì được tin tưởng, được ghi nhận, và thêm điều kiện để cống hiến cho nước nhà.
Anh hùng LLVTND, nhà thơ Nguyễn Đăng Chế trên cầu Bến Thủy (địa điểm phà Bến Thủy những năm chống Mỹ). Ảnh: Tư liệu
Đế quốc Mỹ đánh phá hầu như liên tục phà Bến Thủy. Ban ngày những con phà và 200 con người của đại đội ẩn nấp trong rú Quyết. Màn đêm buông, những bàn chân lặng lẽ và hối hả kéo phà ra bến “Cả đại đội bám sông đánh Mỹ/ Sục sôi từng chuyến phà đêm” (Nhà chúng tôi). Những chàng trai quả cảm của Đại đội 33 phà Bến Thủy của chàng trai trẻ Nguyễn Đăng Chế lại ra phà làm nhiệm vụ quyết tâm cho mỗi đêm trung bình có từ vài trăm đến gần ngàn xe di chuyển qua phà, chở theo vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang… vào Nam giúp đồng bào miền Nam đánh Mỹ.
Năm 1972, Mỹ trở lại ném bom miền Bắc lần thứ hai với cường độ cao hơn, khốc liệt hơn.Tháng 11/1972, phà Bến Thủy bị tắc hàng tuần do máy bay Mỹ ném bom nổ chậm và bom từ trường thế hệ mới. Phương án dùng thuyền khử từ rà phá không hiệu quả nữa. Huy động tàu phóng từ hải quân cũng chưa rà phá hết được số lượng bom dưới lòng sông sâu.
Trước tình hình đó, Trưởng phà Nguyễn Đăng Chế nêu sáng kiến dùng phà lớn, tốc độ nhanh, lướt trên bom với kích từ mạnh để buộc nó phải nổ. “Ai sẽ là người chỉ huy con phà cảm từ này?”. “Tôi là Trưởng phà, tôi trực tiếp chỉ huy con phà này!” – Nguyễn Đăng Chế không do dự quyết nhận nhiệm vụ. Xong “Lễ truy điệu sống”, ông đã chỉ huy đồng đội lái 2 ca nô kèm con phà rà trên sông đến vòng thứ 3 thì 2 quả bom từ phát nổ, kích thích những quả bom khác cùng nổ. Con phà chìm dần, Nguyễn Đăng Chế và đồng đội bị sức ép nặng nổi bồng bềnh trên mặt sông. Nhưng tử thần đã không cướp được mạng sống của người anh hùng. Sau nhiều tháng điều trị ông được trở về đơn vị. Giữa năm 1973, Phà Bến Thủy được ghi danh đơn vị Anh hùng lần thứ 2. Có một phần đóng góp to lớn của ông – người Trưởng phà mẫu mực và quả cảm. Còn ông thì từ chối lời đề nghị làm hồ sơ phong anh hùng, bởi chiến tranh còn tàn khốc, ngày ngày ông đang phải chứng kiến nỗi đau “Hạ huyệt bom đào bật áo quan” (Về lại núi Quyết), nên ông bảo “mình nhận anh hùng răng được”. Ông thấy nhẹ lòng bởi ông đã làm đúng với lương tâm, với anh em đồng nghiệp.
“Câu thơ viết cả cuộc đời”
Không chỉ tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình, Nguyễn Đăng Chế cũng tiếp nối một truyền thống nữa: làm văn nghệ. Ông trở thành hội viên ban Thơ và gắn bó với ngôi nhà chung của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Nghệ An. Một ngày tháng Bảy vừa qua, ông tới thăm Tạp chí Sông Lam và đưa mẩu giấy nhỏ cho tôi, bảo: “Bác vừa làm xong bài thơ về ngày 27/7. Không nguôi ngoai được cháu ạ”.
Trưa hôm sau ông lại tới, vẫn còn nguyên cái mũ bảo hiểm trên đầu: cháu lấy bản ni, bác vừa sửa câu cuối “Lồng lộng trời quê đêm tháng Bảy/ Dân chúng tụ về – hương ngát bay”.
Ngoài tám mươi rồi, dù bước chân còn rắn rỏi, dáng thẳng tưng, nhưng việc đi lại cũng chẳng dễ khi mỗi lần tới Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh bác lại phải cậy nhờ xe lai. Vậy nhưng, không yên tâm trao đổi qua điện thoại, bác phải tự mình trực tiếp đến, trao tận tay, chỉ bởi: “không nguôi ngoai được” trước sự hy sinh xương máu của các liệt sĩ, của những đồng nghiệp ngành giao thông một thời đạn bom. Trải qua sinh tử, 2 lần may mắn vượt cõi chết vì đạn bom, trong thân thể còn mang đầy thương tích, nay hưởng trái ngọt thái bình, ông thấm thía niềm tri ân.
Nhà thơ Nguyễn Đăng Chế bên người bạn thơ Trần Công Bổng. Ảnh: Võ Khánh
Nghỉ hưu, rời ngành giao thông, ông về quê lúa Yên Thành, thực sự “Chẳng bận lòng với được thua” và toàn tâm trao gửi nỗi niềm về cuộc sống cho những câu thơ. Ông vẫn luôn tự dặn và xem đó là một nguyên tắc sống: “Lợi danh đen trắng nhập nhằng/ Tránh xa đừng để gọi thằng mà đau” (Ước chi). Lòng tự trọng và tự tôn về lẽ làm người luôn cao dày trong ông.
6 tập thơ ông gom lại đời thơ sáng tác (cho đến năm 2020): Với người năm xưa (1996), Dòng sông vô hình (2008); Tiếng vọng con đường (2014); Thơ 4 câu (2014); Nắng chiều (2016, in chung); Lục bát chiều (2020) là tiếng của ký ức, của sự thủy chung, và của lẽ làm người.
Ông bảo: còn gần 200 bài thơ nữa sáng tác từ 2020 cho đến nay, nhưng chưa nghĩ đến chuyện ra sách, “Làm thơ là cho mình. Gửi gắm, giãi bày qua mỗi câu thơ như thấy mình được vui, được ‘giải phóng’ khỏi một điều gì đó còn canh cánh”.
Sống sao thơ vậy. Thơ ông không nặng về tỉa tót câu chữ, mà mộc mạc, chân tình, thẳng rõ như con người ông.
Nhiều câu thơ, bài thơ của ông khiến người đọc không thể quên, phải dừng lại, ray rứt, ngẫm ngợi: “Bến Thủy/ Đôi bờ máu nhớ bàn chân” (Dấu chân); “Cầu vươn nhớ bến tưởng nguồn/ Con phà bom dội gọi hồn ta chăng/ Bây giờ phố thị dung dăng/ Còn ai quên nhớ mảnh trăng máu bầm?” (Nỗi niềm). Rất nhiều bài thơ của ông giãi bày về một nỗi lo. Ông sợ ở đâu đó hôm nay, người ta quên những trang sử được viết bằng máu của các chiến sĩ liệt sĩ, của các đồng nghiệp ngành giao thông. Qua phà Gianh ông chạnh lòng nhớ đồng đội “Tôi như kẻ suốt đời mang nợ/ qua phà rồi cứ ngỡ phà theo” (Qua phà Gianh, nhớ…) và thắc thỏm về cầu Bến Thủy: “Cầu đã bắc rồi/ Phà ở đâu?” (Nhớ con phà).
Câu thơ ông viết nặng niềm đau về những cô gái thanh niên xung phong từng “Máu hồng” thông tuyến xe đi xẻ rừng (Lời em), và giờ đây: “Giặc tan về lại cánh đồng/ Một mình gối chiếc phòng không… một mình”. Ông ray rứt, ai sẽ là ngươi chia sẻ những nỗi đau này?
Về mẹ, ông luôn dành một tình cảm đặc biệt, ngưỡng mộ, biết ơn và một sự sẻ chia sâu sắc. Ông viết rất nhiều bài thơ về mẹ, trong đó có những bài lắng lại trong lòng người đọc như “Rơm rạ một thời”. Ông đau cùng nỗi đau thầm mẹ phải gánh chịu qua hàng chục năm trời không tìm thấy mộ của người anh liệt sĩ “Mẹ già tuổi đã gần trăm/ Đêm đêm mẹ ước được nằm bên con” và 38 năm sau ngày anh hy sinh mẹ mới được thỏa lòng “Mẹ ôm anh nước mắt trào” (Đón anh về).
Nhà thơ Nguyễn Đăng Chế nhận hoa của các văn nghệ sĩ trong Đêm Thơ. Ảnh: Võ Khánh
Trải qua sinh tử chiến tranh ông hiểu giá trị của sự tri ân, của kế thừa và tiếp nối. Không có bàn đạp nào vững chãi hơn là đi lên từ sự tiếp nối quá khứ, từ nền móng cha ông đã dựng xây. Bởi vậy, ông luôn canh cánh nỗi lo: cháu con quên lịch sử.
Trong thơ ông, luôn nặng sâu những ký ức, những nỗi thương người. Những ký ức về mẹ, về cha, về quê hương đồng chiêm trũng Yên Thành của ông. Ông thương người nông dân ở quê nhà “Bám bùn đất để đi lên/ Dầm mưa đội nắng làm nên mùa màng”, nhưng vẫn còn nhiều người chưa được thong dong hưởng lộc mùa mình đắp xây.
Đi qua, gần tới cõi trăm năm, ông phải thốt lên: “Làm người không dễ con ơi” (Ca dao với con) và ông đã răn dạy 4 người con sống trung thực và trưởng thành không hổ danh truyền thống của gia đình.
Ông vui vì khi nghỉ hưu đã góp sức để xã nhà Vĩnh Thành (nay là xã Hợp Minh) đã xuất bản được một tuyển tập thơ chất lượng, điều mà không mấy xã làm được. Với ông, không có thành quả nào giá trị, bền vững hơn những sáng tạo tinh thần.
Một đời dành cho thơ, nhưng vẫn luôn là “câu thơ viết cả cuộc đời”, bởi trong ông không bao giờ thôi trở trăn, day dứt lẽ đời.
Năm 2018, ông chính thức được vinh danh “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Hỏi ông mong ước điều gì, ông rằng: “Mai ngày ta “hóa anh hùng”/ Dọc ngang âm phủ ngồi cùng chiếu thơ”.
Chúng tôi thì mong ông sức khoẻ, niềm vui để tiếp tục “ngồi cùng chiếu thơ” nơi trần thế thật lâu, không phải để trở trăn, mà thong dong hưởng lẽ làm người, để hồn thơ mãi “trong ngần chất quê”, để chúng tôi tự hào vì làng văn xứ Nghệ có một Nhà thơ – Anh hùng.
Đào Thúy Hoa
(*). Các câu thơ trích trong bài của Nguyễn Đăng Chế.