Mãi mãi sức thanh xuân…

Đất trời đang ríu rít vào xuân. Mùa xuân năm thứ 80 của nước Việt Nam mới, khai sinh từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Mùa xuân tròn nửa thế kỷ thống nhất non sông, Bắc – Nam sum họp một nhà. Mùa xuân năm thứ 39 của công cuộc Đổi mới, Hội nhập và Phát triển đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo…

Lịch sử và tạo hóa có một sự trùng hợp thật ý nghĩa: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào một ngày đầu xuân Canh Ngọ, ngày 3/2/1930, đến xuân Ất Tỵ này là 95 mùa xuân Đảng đồng hành cùng nhân dân và đất nước, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng ta ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại, một mốc son của lịch sử dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến và bần cùng, lạc hậu. Từ đó đến nay, 95 mùa xuân đã đi qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thành tựu vĩ đại. Nước ta từ một nước thuộc địa và phong kiến, đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Việt Nam từ một nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, đã trở thành đối tác bình đẳng với nhiều quốc gia có uy tín trên thế giới…

Đặc biệt, sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng tổ chức giữa mùa xuân năm 1986, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển. Những thành tựu to lớn của công cuộc Đổi mới đã chứng tỏ bản lĩnh và sức sống của Đảng trong công cuộc xây dựng đất nước sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến cứu nước, khẳng định đường lối Đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo. Và mùa xuân Ất Tỵ 2025 là mùa xuân trước thềm kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Vui xuân mới, lại nhớ về những khó khăn và thách thức mà đất nước phải vượt qua trong năm Giáp Thìn 2024. Nổi cộm nhất là tình trạng biến đổi khí hậu gây nên những hệ lụy về thiên tai toàn cầu, là cơn suy thoái kinh tế sau đại dịch COVID-19 trên phạm vi toàn thế giới. Cùng đó là những cuộc xung đột vũ trang tại nhiều quốc gia và khu vực, ảnh hưởng toàn diện đến đời sống kinh tế và chính trị quốc tế… Bối cảnh ấy đã tác động rất lớn đến tình hình kinh tế, xã hội của nước ta. Đặc biệt, cơn bão số 3 – siêu bão Yagi ở miền Bắc và tiếp đó là những trận lũ lụt do hoàn lưu của các cơn bão tiếp theo ở miền Trung, đã gây nhiều thiệt hại về người, tài sản, hạ tầng kinh tế, xã hội và hầu hết các ngành sản xuất, kinh doanh…

Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ đã quyết liệt lãnh đạo và chỉ đạo các bộ, ngành và các địa phương tiếp tục thực hiện các giải pháp nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định đời sống nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất và kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô… Theo đó, tình hình kinh tế – xã hội trong năm 2024 của nước ta tiếp tục xu hướng tích cực, các ngành và các lĩnh vực đều đạt được những kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho năm 2025. Đặc biệt, đời sống dân cư và an sinh xã hội đang từng bước được cải thiện. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và nhiều tổ chức uy tín quốc tế, thì “Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công”. Những thành tựu của công cuộc Đổi mới, kết hợp với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, GDP bình quân đầu người tăng gấp 6 lần trong vòng chưa đầy 40 năm… Nhờ có nền tảng vững chắc như vậy, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu khá trong những giai đoạn khủng hoảng. Hiện nay, Việt Nam đang trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên Hợp Quốc, xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện… với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Uy tín của Việt Nam đang ngày càng được nâng cao trên chính trường quốc tế.

Công cuộc hội nhập và phát triển của dân tộc ta được ví như con thuyền từ các cửa sông mà đi ra biển lớn, với biết bao sóng gió trước một mục tiêu mới – vừa gần gũi, vừa dài lâu, đó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như là sự kế tục và cụ thể hóa ba yêu cầu: độc lập, tự do, hạnh phúc gắn liền với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ lúc khai sinh. Đó là mục tiêu nói lên bản chất sự phát triển theo qui luật tự nhiên. Dân có giàu thì nước mới mạnh, đi cùng với công bằng để đến với dân chủ và văn minh là hai mục tiêu lớn và bao trùm đã được nêu lên từ khi Đảng ta ra đời cách nay 95 năm. Và cho đến bây giờ vẫn tiếp tục vừa là động lực vừa là mục tiêu của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Để vững bước vào kỷ nguyên mới, vẫn còn biết bao cản trở phải vượt qua. Trước mắt, Đảng ta chủ trương cải tiến phương thức lãnh đạo trong thời kỳ mới; tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; khẩn trương sắp xếp tinh gọn bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tích cực thực hiện chuyển đổi số và kiên quyết chống lãng phí. Đặc biệt, phải tập trung tháo gỡ “điểm nghẽn của các điểm nghẽn” là thể chế. Thể chế do con người tạo ra và vận hành, bởi vậy suy cho cùng con người vẫn là khâu quyết định. Đảng ta luôn luôn xác định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Bởi vậy, kỷ nguyên mới đòi hỏi một đội ngũ cán bộ ngoài những tiêu chuẩn về đạo đức và phẩm chất cách mạng, phải là những người có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện thành công chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn ở từng bộ, ban, ngành và địa phương theo hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược và cải cách triệt để thủ tục hành chính…

Sau 30 năm trường kỳ kháng chiến, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước bằng chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975. Khát vọng độc lập, tự do đã thành hiện thực. Những tưởng từ đây đất nước sẽ bình yên mà phát triển. Nào ngờ tiếp đó là giai đoạn chồng chất khó khăn và thách thức: hậu quả nặng nề và toàn diện sau mấy chục năm chiến tranh, cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước, cuộc chiến đấu giúp nước bạn thoát họa diệt chủng, sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch… Cùng đó là những yếu kém, ấu trĩ, rập khuôn trong tư duy kinh tế và quản lý xã hội, khiến đất nước như lên cơn sốt với “tốc độ phi mã” của lạm phát, trượt giá… cùng những tiêu cực xã hội và sự li tán lòng người…

Như một quy luật xã hội đã được cổ nhân đúc kết: “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Công cuộc Đổi mới do Đảng ta phát động đã đến đúng lúc, cùng với khẩu lệnh “Những việc cần làm ngay!”, phương châm “Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu” và những thuật ngữ mới được toàn dân háo hức đón nhận: “Cơ chế thị trường định hướng XHCN”, “Cởi trói”, “Mở cửa”… Có thể nói, quá trình đổi mới tư duy để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội là một cuộc chiến đấu không kém phần gay go quyết liệt. Bởi đó trước hết là cuộc chiến đấu để vượt qua chính mình, để tấn công vào những định kiến già cỗi trong ý thức và tiềm thức của dằng dặc mấy chục năm chiến tranh và hậu chiến. Đảng ta đã dũng cảm lãnh nhận phần trách nhiệm, để khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo công cuộc Đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt.

Sắc xuân. Ảnh: Nguyễn Đạo

Những thành tựu của công cuộc Đổi mới là rất toàn diện, vô cùng to lớn và hết sức cụ thể. Đặc biệt là Đảng ta đã chèo lái công cuộc Đổi mới vượt qua những xung đột địa chính trị mà Việt Nam luôn nằm trong toan tính của các cường quốc hàng đầu. Chiến tranh, dù với bất kể lý do gì, cũng là điều hết sức tồi tệ và vô cùng bất hạnh. Là một đất nước đã phải trải qua biết bao cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Nhân dân Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết sự khốc liệt của chiến tranh. Trong tâm trí của nhiều thế hệ người Việt còn in đậm hình ảnh những cuộc tản cư chạy giặc lếch thếch, nháo nhác. Những trận địch càn xóm làng vang dậy tiếng la thét hoảng loạn, rừng rực lửa cháy, nhà đổ. Những trận mưa bom B52 rải thảm khiến trong chớp mắt làng mạc, phố xá, trường học, bệnh viện tan hoang… Những thảm cảnh đó đã lùi xa nhiều chục năm, nhưng di chứng của nó thì vẫn còn nhức nhối trong đời sống cả vật chất lẫn tinh thần của nhiều số phận, nhiều gia đình, nhiều thế hệ, thống thiết nhắc nhở mỗi người về giá trị vô bờ bến của cuộc sống hòa bình hiện nay.

Ngày nay, thế giới đang có những thay đổi mang tính thời đại để xác lập một trật tự mới. Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn “nước rút” để đạt mục tiêu chiến lược sau 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2045, đạt mục tiêu trở thành một nước phát triển sau 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Kỳ tích về một nước thuộc địa nửa phong kiến đã kiên cường chiến đấu và chiến thắng hai đế quốc và thực dân hùng mạnh. Kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận đã thực hiện thành công công cuộc Đổi mới với những thành tựu vĩ đại, kết quả của công cuộc phòng chống tham nhũng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua… là cơ sở niềm tin cho một cuộc lên đường mới của toàn Đảng và toàn dân. Hiện nay, ý Đảng đang hòa quyện với lòng dân, chung khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” đang hội tụ tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, tiếp sau Kỷ nguyên giải phóng dân tộc, giành độc lập – tự do trước năm 1975 và Kỷ nguyên Đổi mới, hội nhập khởi xướng từ năm 1986…

Những ngày qua, đồng chí và đồng bào cả nước hết sức hào hứng và nhiệt tình hưởng ứng “những việc cần làm ngay” mà Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; khẩn trương tháo gỡ những “điểm nghẽn” cản trở phát triển; chống lãng phí như chống tham nhũng; quyết liệt xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới…”. Có thể nói, đây là cuộc Đổi mới lần thứ hai do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Đổi mới để trẻ hóa tư duy và nội lực, là dám nhìn thẳng vào những cũ kỹ, giáo điều… của mình để tự “cởi trói” mà vượt thoát, là dám cắt bỏ những khối u trên cơ thể để khỏe mạnh và phát triển. Đó là thái độ thể hiện phẩm chất cách mạng và bản chất văn hóa của Đảng ta.

“Đảng ta”, đó là hai tiếng thiêng liêng và trìu mến mà nhân dân Việt Nam dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiếm có đất nước nào mà nhân dân gọi Đảng cầm quyền là “Đảng ta”; bởi lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là khát vọng độc lập, tự do, cơm no, áo ấm của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tự hào và yêu quý Đảng ta, mỗi cán bộ, chiến sĩ, đồng bào… càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình là tích cực đóng góp cho Đảng ta mãi mãi xứng đáng là ngọn cờ tiên phong của giai cấp, của dân tộc, giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng và củng cố niềm tin yêu của toàn thể nhân dân đối với Đảng quang vinh để Đảng ta mãi mãi sức thanh xuân, đồng hành cùng những mùa xuân đất nước!

Mai Nam Thắng