Bàn về các thể thơ ghi dấu thành công của Huy Cận trong sáng tác, không thể không nhắc đến lục bát. Trong cả ngàn bài thơ mà Huy Cận để lại, mặc dù lục bát có số lượng khá khiêm tốn, song dấu ấn tài năng của ông qua những tác phẩm sử dụng thể thơ này đã thể là không phủ nhận. Bên cạnh những “cây lục bát” tên tuổi như Nguyễn Bính, Tố Hữu, Bùi Giáng, và sau này là Nguyễn Duy, thì Huy Cận xứng đáng được dành một vị trí danh dự.

   Nghiệp thơ Huy Cận trải dài trên 70 năm, thuộc 2 giai đoạn trước và sau cách mạng, nhưng những bài lục bát để đời của ông chủ yếu nằm trong tập Lửa thiêng, ấn hành trước 1945. Đúng vậy, nếu lục tìm trong vài chục tập thơ của Huy Cận xuất bản sau 1945, khó có thể thấy bài lục bát nào sánh được với những Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Đẹp xưa… được viết trong thời Thơ mới.

Nhà thơ Huy Cận. Ảnh: Sưu tầm

Tập Lửa thiêng của Huy Cận có 50 bài thơ, số lượng và tỉ lệ các thể thơ được sử dụng không đồng đều. Cụ thể: thơ 4 tiếng chỉ 2 bài (4%); thơ 5 tiếng: 5 bài (10%); lục bát có 8 bài (16%); thơ 7 tiếng: 19 bài (38%), thơ 8 tiếng có 16 bài (32%). Xem thế đủ thấy, trong giai đoạn Thơ mới, Huy Cận ưu tiên cho thể thơ 7 tiếng và thơ 8 tiếng. Không chỉ về số lượng, giá trị nghệ thuật của những bài tiêu biểu thuộc 2 thể thơ này như: Buồn, Áo trắng, Tràng giang… (thơ 7 tiếng), Trình bày, Đi giữa đường thơm, Mai sau… (thơ 8 tiếng) đã đưa Huy Cận vào hàng những cây bút xuất sắc nhất của thơ lãng mạn.
Vị trí ấy của Huy Cận càng được củng cố thêm nhờ các bài thơ lục bát.
Vốn sinh thành cùng ca dao, lục bát được sử dụng rộng rãi trong truyện Nôm khuyết danh (Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Phan Trần, Hoàng Trừu…). Ở thể loại truyện Nôm, lục bát vẫn còn mang bộ mặt thuần phác, quê kiểng, mà điển hình là hiện tượng từ ký sinh ở vị trí gieo vần khiến ngày nay đọc lại, ta không khỏi thấy ngô nghê:
Cha tôi trưởng giả nhà quê
Giàu sang sớm đã sinh thì ba tôi
(Tống Trân – Cúc Hoa)
Nằm lăn em mới ngủ đi
Vừa hết canh một sang thì canh năm
(Phạm Tải – Ngọc Hoa)
Qua bàn tay thiên tài Nguyễn Du, lục bát dường như được lột xác. Vẫn những quy cách vần điệu ấy, nhưng câu lục bát trong Truyện Kiều đã trở nên nhuần nhụy, tươi tắn, có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu biểu đạt (kể chuyện, tả cảnh, tả người, tả tình, phẩm bình, triết lý, dẫn thoại, đối thoại, độc thoại,…). Dù vậy, lục bát Nguyễn Du vẫn thiên về thuật sự. Có tả tình, biểu cảm thì cũng chỉ phục vụ cho mục đích tự sự. Những đoạn trữ tình đặc sắc nhất của Truyện Kiều vẫn nằm trong khuôn khổ của bút pháp tả cảnh ngụ tình rất phổ biến của thi pháp trung đại. Ở một truyện thơ, đặc điểm ấy là tất yếu. Việc hàm súc hóa lục bát trong một chỉnh thể thơ trữ tình tinh gọn vẫn còn ở là câu chuyện của tương lai. Những nhà thơ như Tú Xương, Tản Đà sẽ tiếp tục tìm tòi, khai mở. Đi hát mất ô (Tú Xương), Thề non nước (Tản Đà), và nhất là những bài thơ Đường được Tản Đà dịch bằng lục bát kiểu như Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu đã để lại những kinh nghiệm quí báu. Đến Thơ mới 1932 – 1945, thể lục bát được không ít nhà thơ thử bút. Viết dăm ba bài có Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,… Viết nhiều hơn có Hồ DZếnh. Tuy nhiên, nếu kể đến một “đối trọng” nặng ký của Huy Cận ở lục bát, thì chắc chắn người đó phải là Nguyễn Bính.
Không khó để nhận ra sự khác biệt giữa lục bát Nguyễn Bính và lục bát Huy Cận, và đó cũng chính là chỗ làm nên những nét đặc sắc riêng của hai tác giả này. Nguyễn Bính đã tạo được một “thương hiệu” độc đáo nhờ khai thác khả năng “tự sự để trữ tình” bằng chất liệu dân gian hết sức phong phú. Thơ tình Nguyễn Bính bao giờ cũng xoay quanh một câu chuyện nhỏ, liên quan đến chủ thể trữ tình, và câu chuyện ấy được lâm ly hóa nhờ một hệ thống ngôn từ, hình ảnh, cách ví von, so sánh, cách dùng ẩn dụ, cách thể hiện giọng điệu riêng… Bí quyết trữ tình của Nguyễn Bính không ngoài những vấn đề đó.
Không thể là một phiên bản của Nguyễn Bính, dĩ nhiên Huy Cận nhận thức sâu sắc điều ấy. Nhưng phải khác ở chỗ nào, bằng cách nào thì quả là thử thách không nhỏ. Huy Cận đã chứng tỏ được khả năng của mình ngay ở tập Lửa thiêng khi ông tạo nên một cấu trúc trữ tình hoàn chỉnh trong một hình thức thơ đúc nén mang tính cổ điển. Theo tôi, ấy là nỗ lực đáng ghi nhận nhất của Huy Cận trong việc cá biệt hóa sáng tạo ở thể lục bát.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh tinh ý nhận ra rằng, mặc dù là một trong số những cây bút chịu ảnh hưởng thơ Pháp (theo lối tượng trưng), nhưng Huy Cận lại mang trong hồn cốt của mình chất Đường thi[1]. Chất Đường thi cổ điển ấy thấm nhiễm sâu sắc và chi phối mạnh mẽ tư duy thể loại của Huy Cận. Sở đắc của ông về thể thơ 7 tiếng có lẽ xuất phát từ điều này. Không chỉ về âm luật mà cả về ý tứ, mỗi khổ thơ trong Tràng giang, Xuân, Vạn lý tình… có thể xem như một bài thất ngôn tứ tuyệt. Viết lục bát, Huy Cận cũng triệt để khai thác những thế mạnh của Đường thi ở kết cấu chặt chẽ, ở tính đăng đối, cách dùng nhãn tự, tính cô đúc, ở thủ pháp dùng tĩnh tả động, dùng hữu hạn để nói cái vô cùng…

Ảnh: Sưu tầm

8 bài lục bát có mặt ở tập Lửa thiêng không có bài nào dài. Dài nhất là bài Trông lên (16 câu), còn lại, có 4 bài 12 câu (Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Ngậm ngùi, Xuân ý), 3 bài 10 câu (Chiều xuân, Đẹp xưa, Thu rừng). Có một dấu hiệu đáng lưu ý: phần lớn lục bát của Huy Cận có số câu hầu như tương đương với những bài thơ 7 tiếng – một thể thơ gần với thơ Đường nhất. Trong khi đó, độ dài của thơ 8 tiếng lại khác hẳn. Không hiếm bài dài gấp 2, gấp 3 lần các bài lục bát, chẳng hạn: Đi giữa đường thơm (27 câu), Thân thể (35 câu). Nhạc sầu (37 câu), Trình bày (41 câu)…
Độ dài của bài thơ không đơn thuần phản ánh mức dồi dào của cảm xúc hoặc sự phong phú của ý tứ cần biểu đạt, mà là ở vấn đề ý tưởng cấu trúc. Một khi cảm xúc khởi phát và ý tưởng cấu trúc hình thành, thì hệ quả tức thì sẽ là một thể thơ nào đó được lựa chọn để biểu đạt. Nó định hình ngay từ câu thơ đầu tiên. Có sự lựa chọn vừa ý, có sự lựa chọn không vừa ý, buộc tác giả phải tìm tòi, thay thế. Cùng một đề tài, Chế Lan Viên đã thử viết đi viết lại bằng 3, 4 thể thơ khác nhau, và ông cảm thấy hài lòng nhất là bài  làm theo thể tự do. Huy Cận cũng có một trường hợp tương tự: bài Tràng giang. Trước đó, ông đã viết bài Chiều trên sông bằng thể lục bát, nhưng cảm thấy không thỏa mãn nên đã viết lại thành bài thơ 7 tiếng để có được một Tràng giang mĩ mãn như ta đã thấy. Theo lô gic ấy, các bài lục bát trong Lửa thiêng chắc chắn cũng là kết quả của sự lựa chọn – một sự lựa chọn diễn ra trong bề sâu cảm xúc và tư duy, không dễ diễn giải, bởi lúc đó, mọi yếu tố thuộc tâm thức sáng tạo của chủ thể đều tích cực tham gia và góp phần chi phối.
Để thấy được sự cô đọng, súc tích rất cổ điển của lục bát Huy Cận, ta có thể dẫn ra bất cứ bài thơ nào của ông. Ở đây, tôi muốn dừng lại một chút với bài Đẹp xưa:
Ngập ngừng mép núi quanh co;
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió hút nẻo vàng;
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…
Đi rồi, khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu…
Trơ vơ buồn lọt quán chiều,
Mắt nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người.
Bài thơ như một bức thủy mặc, nét vẽ thưa thoáng. Nghệ thuật chấm phá được sử dụng rất hiệu quả, chi tiết thơ được giản lược tối đa. Thời gian là chiều thu. Không gian thì có tầng, có lớp như hiện ra dưới cái nhìn theo luật viễn cận của hội họa hiện đại: gần có mép núi quanh co, lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang; xa dần là non cao, sau non, trời thu rộng, hút nẻo vàng. Cứ thế, nét vẽ từ sắc, rõ chuyền dần thành nhòe mờ theo cảm nhận thị giác. Thiên nhiên có núi non, mưa gió, mây trời cao rộng. Sự vật có quán dựng, lò cao chênh vênh, hiểm trở. Nẻo vàng là một sắc màu có phần mơ hồ (vì từ nẻo rất ít khi kết hợp với từ chỉ màu cụ thể). Tuy vậy, sắc vàng ấy đã hắt lên bức tranh thơ một vệt sáng rất ấn tượng. Về âm thanh, nếu tiếng vi vu của gió hút nghe rợn ngợp, thì tiếng đạc nhỏ thưa theo vó ngựa xa dần lại có vẻ gần gũi. Nhưng chính tiếng đạc ngựa ấy lại làm cho cảnh tịch liêu càng trở nên tịch liêu hơn bởi hiệu quả của nghệ thuật dùng động tả tĩnh. Đọc đến hai câu Dừng cương nghỉ ngựa non cao/ Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…, ta bỗng nhớ đến hai câu kết trong bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan: Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ/ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn…
Như vậy, các chi tiết nghệ thuật và những yếu tố liên văn bản hiện diện trong bài thơ là một tập hợp đồng hướng, cùng góp phần biểu đạt một trạng thái cảm xúc, một tình huống của đời sống. Cho nên, mặc dù đến cuối bài thơ, chữ buồn mới xuất hiện ở cả câu lục và câu bát (Trơ vơ buồn lọt quán chiều/ Mắt nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người), nhưng thực ra, nỗi buồn ấy đã thấu nhập vào bài thơ ngay từ câu mở đầu nhờ bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng thuần thục, tinh tế.
Giá trị tạo hình và biểu cảm của bài Đẹp xưa rõ ràng là rất phong phú. Ấy vậy mà nó được gói ghém trong chỉ vẻn vẹn 10 câu lục bát, chia làm 3 khổ: khổ đầu 4 câu, khổ giữa 2 câu, khổ cuối 4 câu, gợi ấn tượng về một chỉnh thể hài hòa, đăng đối theo trục tung. Nó gọn, chắc, đầy đặn, không thể thêm bớt. Dường như tất cả những gì đặc trưng của thơ cổ điển đều được phát huy ở bài lục bát này của Huy Cận.
Đến đây, ta có thể hỏi: vậy tính hiện đại của bài thơ là ở đâu? Dấu hiệu nào cho thấy đây là sản phẩm của thời đại Thơ mới?
Theo tôi, câu trả lời nằm ở vấn đề hình tượng con người xuyên suốt toàn bộ bài thơ.
Nếu chú ý, ta sẽ thấy trong bài thơ có 2 loại nhân vật: khách thể và chủ thể. Loại nhân vật khách thể chỉ được chấm phá nhờ nghệ thuật “vẽ mây nẩy trăng” thần tình. Ta hình dung, ở đây có người ra đi (Dừng cương nghỉ ngựa non cao, khuất ngựa sau non) và kẻ ở lại (Mắt nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người). Nhưng bao trùm lên là nhân vật chủ thể. Tất cả những gì trong bức tranh thơ mà ta đã phân tích ở trên (thời gian, không gian, thiên nhiên, ánh sáng, âm thanh…) cùng 2 nhân vật khách thể (người đi – kẻ ở) đều hiện lên qua cảm nhận của một chủ thể trữ tình. Quả là có một cái tôi thi nhân hiện hữu, với quyền uy tối thượng là phủ lên thế giới nghệ thuật bài thơ một nguồn cảm hứng, một sắc thái trữ tình riêng bằng một cấu trúc trữ tình phù hợp. Rất phổ biến trong Thơ mới là cái nhìn chủ quan, áp đặt, bởi ở đó, cái tôi cá nhân luôn luôn giữ vị trí trung tâm, hoàn toàn khác cái nhìn siêu cá thể – hệ quả của việc giấu kín cái tôi trong thơ cổ điển.
Để đồng thời gia tăng chất Đường thi và tính hiện đại cho lục bát của mình, bên cạnh việc cô đọng hóa bài thơ, Huy Cận còn phối hợp các thủ pháp như “đúc chữ”, tiểu đối, kết hợp bất ngờ… Ông tước bỏ những rườm rà của định ngữ nghệ thuật để lời thơ trở nên thật tinh gọn, hàm súc. Thay vì dùng những cụm từ cố định kiểu “cấu kiện đúc sẵn”, ông thích sáng tạo các tổ hợp mới bằng những “bất ngờ cú pháp (chữ của Nguyễn Phan Cảnh). “Nỗi hàn bao la”, “rời rạc trong hồn”, “chân xa vắng”, “dặm mòn lẻ loi”, “hướng lạc, phương mờ”, “bốn bề tâm tư”, “giòng mộng tuôn dòn”, “hương vị đời ngon”, “chiều tê cúi đầu”, “mấy mùa thương đau”… là những tổ hợp như thế. Chúng rất xa lạ với thơ xưa, nhưng lại khá quen thuộc trong Thơ mới 1932 – 1945. Cũng vậy, câu thơ tiểu đối kiểu “Nghe trời nằng nặng/ nghe ta buồn buồn”, “Trời xa sắc biển/ lá thon mình thuyền”, “Trăm chèo của Nhạc/ muôn lời của Thơ”, “Đèo cao quán chật/ bến đò lau thưa”… xuất hiện không ít trong tập Lửa thiêng. Tiểu đối nhưng vẫn rất tự nhiên, không gò bó, câu thúc, khiến lời thơ vừa uyên súc, cổ điển, vừa trang nhã, tươi mới.
Vang lên từ lục bát Huy Cận là giọng sầu não rất đặc trưng. “Sầu” vốn là thứ “gia bảo” truyền đời của hồn thơ Huy Cận. Nó phổ vào mọi bài thơ, mọi thể thơ. Nhưng có lẽ lục bát với nhịp chẵn đều đặn, tiết tấu chậm rãi, với lối bắt vần lưng ở vị trí bất biến đã giúp nhà thơ tạo nên một hiệu ứng âm điệu đặc biệt. Ngày trước, bằng lục bát, Nguyễn Du đã viết nên một truyện thơ có giọng cảm thương lôi cuốn mê hoặc (ý của GS. Trần Đình Sử). Thời Thơ mới, cũng với lục bát, điệu hồn sầu não của Huy Cận được cất lên thành giọng thơ độc đáo. Giọng điệu ấy là tổng hòa của nhiều yếu tố. Trước hết là cảm xúc thơ bật lên từ âm giai của từ buồn, buồn bã, buồn buồn, sầu, rầu, ngây, ưu phiền, thương đau… phối hợp với các từ chỉ tâm trạng (chủ yếu là từ láy, có tần số xuất hiện cao trong Lửa thiêng) như: nặng nặng, rời rạc, xa vắng, lẻ loi, vu vơ, tương tư, hiu hắt, hững hờ, quằn quại, lê thê, héo hon, ngẩn ngơ, tịch liêu, trơ vơ, âm u, lạnh lùng, hiu quạnh,… Chúng hợp thành một chùm dấu hiệu đặc dị giúp người đọc không thể nhầm lẫn lục bát Huy Cận với lục bát của một nhà thơ nào khác cùng thời:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
(Buồn đêm mưa)
Buồn gieo theo gió veo hồ,
Đèo cao quán chật bến đò lau thưa…
(Chiều xưa)
Nắng chia nửa bãi; chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
(Ngậm ngùi)
Một điều rất dễ thấy, hình ảnh trong lục bát Huy Cận thường thấm đẫm cảm xúc buồn thương, cô quạnh. Ấy là những vườn hoang, cây dài, bóng xế, đêm mưa, dặm mòn lẻ loi, chân xa vắng, hơi may hiu hắt, hiu hiu gió, đèo cao quán chật, bến đò lau thưa, quằn quại bóng cờ, thành son nhạt, chiều tê cúi đầu, ánh trăng tàn, hàng mây nao, tạnh vắng bên cồn, tràng giang lững lờ, dặm xa lữ thứ,… Nhờ những hình ảnh như thế mà ở không ít bài thơ, dẫu chữ “sầu”, “buồn”, “tái tê” vắng bóng, thì giọng sầu não vẫn trỗi lên như một chủ âm:
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng…
(Thu rừng)
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt. – Chiều tê cúi đầu…
(Chiều xưa)
Canh khuya tạnh vắng bên cồn,
Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang…
(Thuyền đi)
Lục bát là một thể thơ minh triết – nhà ngôn ngữ học Nguyễn Phan Cảnh đã nhận định như thế. Sự minh triết đó thể hiện ở trường nét dư, có nghĩa là, dù cho phát triển rực rõ đến mức nào, lục bát vẫn không hề bị vắt kiệt khả năng biểu hiện. Ngược lại, nó luôn tạo độ dư, chừa khoảng trống cho sự sáng tạo[2]. Huy Cận là một minh chứng về khả năng tái sử dụng một thể thơ đã quá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Sau ông, một số cây bút cũng tìm được ít nhiều vinh quang ở thể lục bát. Để làm được điều đó, dĩ nhiên, trước hết phải có tài năng. Với Huy Cận, tài năng ấy nẩy nở trên một vốn văn hóa thâm hậu, ở đó, có ảnh hưởng của văn học phương Tây, có vấn vương “hồn cũ thịnh Đường”, đồng thời có sự bắt rễ rất sâu vào mạch nguồn truyền thống thơ ca dân tộc.

Đặng Lưu

(Bài đã đăng trên Tạp chí Sông Lam, Số 3/Bộ Mới/2020)
————————-
[1] Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, tái bản lần thứ 17, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000, tr. 32 – 33.
[2] Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, tái bản lần thứ nhất, Nxb Thanh niên, 2001, tr. 212.