Cách thành phố Vinh nhộn nhịp khoảng 13 km về phía đông, nằm khiêm tốn trên con đường nhỏ, trong khu vực bãi biển Cửa Lò thơ mộng là ngôi đền hàng trăm năm tuổi. Khác với sự ồn ào, náo nhiệt ngoài kia, đền nằm yên bình, tĩnh lặng, khoác lên mình vẻ trầm mặc của thời gian. Dù khiêm tốn nhưng nó lại toát lên sự uy nghiêm đến kì lạ, để cho du khách ai đã từng một lần đặt chân đến, đều không thể lãng quên. Đó chính là đền Làng Hiếu.

Đền Làng Hiếu nằm trên địa bàn phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (1533-1789), gồm 3 nhà thượng điện, trung điện, hạ điện. Bước qua cổng đền, cảm giác đầu tiên chính là sự bình yên đến lạ. Dường như tất cả mọi thứ trần tục đã được giữ lại sau cánh cổng. Hành trang du khách mang theo chỉ là lòng tôn kính, sự ngưỡng vọng và sự tò mò với thế giới thần linh.

Vào sâu bên trong, các vị thần, Phật lần lượt hiện ra trước mắt, gợi cho ta nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Tôi ấn tượng về một pho tượng cổ đã bị xạm đen một vài chỗ. Thủ từ của đền cho biết, đây chính là thần Sát hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn – vị thần cai quản 12 cửa biển. Dù là nhân vật lịch sử có thật, được chính sử ghi chép nhưng lai lịch của thần cũng vô cùng thần bí. Chuyện kể rằng: một buổi sáng tinh mơ, Trương phu nhân ra sông gánh nước, bỗng thấy hai con trâu từ dưới nước lao lên và nhào vào húc nhau chí tử. Chúng lao đến chỗ bà, bà dùng đòn gánh đuổi, tự nhiên hai con trâu biến mất. Nhưng một cái lông trâu đã dính vào đầu đòn gánh rồi rơi xuống thùng nước. Bà uống phải, tức thì thấy trong người khác thường, từ đó mang thai. Ít lâu sau, bà sinh một bé trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Hoàng Tá Thốn. Lớn lên, Hoàng Tá Thốn có sức khỏe hơn người, vật giỏi, trai trong vùng không ai địch nổi, đặc biệt là có tài bơi lội, ngài đi lại dưới nước như trên đất bằng. Với tài năng như vậy, ngài đã có nhiều đóng góp cho công cuộc chống giặc Nguyên – Mông của Triều Trần vào thế kỉ thứ XIII.

Sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm, đất nước trở lại thanh bình, vua Trần giao cho ngài thống lĩnh các đạo thủy binh coi giữ 12 cửa biển (từ Hải Phòng cho đến Hà Tĩnh), bảo vệ vùng duyên hải. Vâng lệnh triều đình, Hoàng Tá Thốn cùng các con trai của mình xây dựng các vùng trạm, trại, căn cứ ở khắp vùng Nghệ Tĩnh để canh gác, bảo vệ vùng biển và lãnh thổ nước nhà. Ngài đã huấn luyện được đội quân thiện chiến, nhiều lần đánh tan bọn cướp biển giữ yên cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Trong một lần đi tuần thú đường biển ở Thanh Hóa, đến cửa Trào (huyện Hoằng Hóa – tỉnh Thanh Hóa thì ngài hóa, nhằm ngày 15 tháng 3 năm 1339). Triều đình được tin, truy phong là Tô Đại Liêu Thiên Bồng Nguyên Soái Đại Tướng Quân.
Thần vốn được thờ ở một ngôi đền khác, nhưng chiến tranh đã tàn phá nơi cư ngụ của thần. Điều kì lạ là dù nhà cửa tan hoang, mọi thứ đổ nát nhưng tượng thần vẫn không hề hấn gì, chỉ ám chút khói đen của bom đạn. Dường như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó đã bảo vệ pho tượng. Chính điều này càng khiến dân chúng tin rằng, thần thật sự có sức mạnh vô biên, đẩy lùi được cả hòn tên, mũi đạn của kẻ thù. Bởi vậy, nhân dân đã rước thần về đây để tiếp tục phụng sự, những mong thần dùng sức mạnh ấy che chở, bảo vệ cho dân làng.

Đối diện với pho tượng Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn là hệ thống tượng Tam tòa Thánh Mẫu. Chính giữa nhà đặt bộ tượng Tam Thế Phật. Một điểm thu hút, tạo nên sự thích thú đối với du khách, đây đều là những pho tượng cổ rất sinh động, màu thời gian hiện rõ trên bề mặt tượng. Nhất là 3 pho tượng Tam Thế Phật bằng gỗ Mít, được tạc trong tư thế ngồi trên đài sen, hai chân kiết già tọa thiền, đầu đội mũ cánh sen, mình mặc áo cà sa, với khuôn mặt từ bi, phúc hậu…. tạo cho du khách cảm giác nhẹ nhàng, thư thái và tạm thời quên đi những mệt mỏi chốn hồng trần.

Bước tiếp vào thượng điện – nơi được coi là cung cấm, nơi thâm nghiêm nhất của đền, ta lại kính cẩn, nghiêng mình và không khỏi bồi hồi khi được nghe kể về những vị thần ngự trị ở khu vực này. Đây là hai vị thần chủ của đền.
Vị thần thứ nhất là Bản cảnh Thành hoàng. Chuyện kể rằng: Vào năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng (1782), trấn Nghệ An bị dịch tả hoành hành, nặng nhất là vùng Vạn Lộc, Cửa Hội. Đây là vùng có mật độ dân số cao, thói quen sinh hoạt kém vệ sinh nên dịch bệnh phát triển mạnh. Khắp các xóm làng đâu đâu cũng có người chết vì bệnh dịch tả, thậm chí có những gia đình dịch tả giết chết không còn ai. Dân làng lập đàn trừ ôn hoàng dịch tễ, nhưng vẫn không có hiệu quả. Bỗng có một thầy lang đi qua và đã ra tay cứu chữa cho nhân dân trong vùng và các vùng lân cận. Dịch bệnh được đẩy lùi, sự sống hồi sinh. Lúc này người ta cũng không còn thấy thầy lang đâu nữa. Ông chữa bệnh cho dân bằng tất cả tấm lòng của một lương y, không hề lấy tiền của ai và cũng không để lại tên tuổi. Do đó, nhân dân trong làng không biết lai lịch, quê quán của ông. Có người nói ông họ Trương ở Diễn Kỷ (Diễn Châu), người thì nói ông họ Phạm ở Nghi Thiết, người lại cho rằng ông họ Hoàng ở Nghi Tân hay ông họ Nguyễn ở Nghi Hợp… Về sau, tưởng nhớ đến công ơn của ông, dân làng đã lập đền thờ. Phàm trong làng ai ốm đau, bệnh tật đến cầu đảo đều được linh ứng. Từ đó, thần được nhân dân tôn làm thành hoàng của làng Hiếu Thọ. Tiếng tăm của thần vang đến tận triều đình, được triều đình ghi nhận bằng sắc phong. Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được hai đạo sắc phong năm Tự Đức thứ 6 (1853) và sắc phong năm Khải Định 9 (1924).
Vị thần thứ hai là thần Cao Sơn Cao Các. Đây là vị thần được thờ rất phổ biến ở Nghệ An dù lai lịch của thần rất mơ hồ. Cho đến bây giờ, vị thần này là ai vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên, chính vì sự mơ hồ ấy càng làm cho thần trở nên linh thiêng vời vợi, càng gợi nên sự tò mò của nhiều người. Với mong muốn được thần phù hộ, che chở cho dân làng ra khơi vào lộng được bình yên, đánh bắt được nhiều hải sản nên dân làng Hiếu Thọ đã tôn thần Cao Sơn Cao Các làm Bản xứ Đương cảnh Thành hoàng.
Ngoài ra, trong khu vực đền Làng Hiếu còn có khu mộ cá Ông rất độc đáo. Cá ông được chôn và được thờ ở rất nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Nghệ An và cả nước. Tuy nhiên, sự độc đáo ở đây là tất cả cá Ông bị chết ở biển vùng này từ nhiều đời nay đều được dân làng Hiếu chôn tập trung trong khu mộ. Đây là một trong những địa điểm chôn nhiều xác cá Ông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tới đây, du khách sẽ được nghe về mỗi ngôi mộ là một câu chuyện cá Ông với tất cả sự thành kính, ngưỡng vọng của người dân làng Hiếu.

Đối với nhiều người, cá Ông hay cá Voi chỉ là một sinh vật bình thường, gây ấn tượng bởi sự to lớn. Với những người dân biển, đặc biệt là những người dân sống bằng nghề đánh cá, đi biển thì cá Ông như người cha, người mẹ che chở, bảo vệ, cứu giúp mỗi khi thuyền bè gặp nạn. Vì vậy, họ rất tôn sùng và suy tôn cá Ông với nhiều mỹ tự như: Ngư Ông, ông Nam Hải, ông Chộng, ông Lộng, ông Khơi, Nam Hải Đại tướng quân.
Tương truyền rằng: Vùng Cửa Hội thường xuất hiện một cá Ông to như chiếc tàu. Nhiều lần biển động ghe thuyền đánh cá gặp nguy hiểm, ông thường đến cứu giúp. Cá Ông kê lưng đỡ thuyền lướt qua sóng gió hãi hùng và đã cứu vớt được nhiều ngư dân gặp nạn. Khi “ngài” mất, xác trôi vào bờ, ngư dân phải dùng đến 30 đôi chiếu mới để đắp di hài mà không hết.
Theo tục lệ của dân đi biển thì ai phát hiện được cá Ông mắc cạn (tục gọi là “ông lụy”) thì có bổn phận chôn cất và để tang Ông như để tang chính cha mẹ mình. Người đầu tiên phát hiện ra xác cá Ông được gọi là trưởng nam và khi tổ chức tang lễ phải mặc trang phục như một người con trai trưởng tổ chức đám tang cho cha mẹ. Toàn bộ những nghi lễ liên quan đều phải được cả dân làng thực hiện. Nếu cá Ông nhỏ chết, người ta gọi là thai sẩy và gọi là thần cô, thần cậu để tỏ sự tôn kính.
Hàng năm, tại đền Làng Hiếu có nhiều kỳ lễ trọng nhưng quan trọng và quy mô nhất là lễ Cầu ngư ngày 15 tháng 3 âm lịch thu hút đông đảo nhân dân trong vùng, vùng phụ cận và du khách thập phương về dự.
Lễ Cầu ngư hay còn gọi là lễ Nghinh Ông, là dịp để dân làng thể hiện lòng tri ân đối với cá Ông và các vị thần linh, đồng thời cầu mong cho mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng, xóm làng sung túc, người ra khơi bình yên trở về, đánh bắt được nhiều cá tôm.
Năm nay, tôi lại về làng Hiếu vừa khi được chứng kiến không khí khẩn trương, gấp rút chuẩn bị lễ hội đền với nhiều chương trình đặc sắc: lễ tế và xin rước sắc, lễ Phụng Nginh tại bến thuyền Hà Dung và nhiều trò chơi mang tính dân gian đặc sắc như thi nướng cá, thi rót nước mắm…. Không khí chuẩn bị khẩn trương, sôi nổi với sự háo hức hiện rõ lên khuôn mặt của anh Lê Minh – vị Phó chủ tịch phường trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết khi trò chuyện với chúng tôi.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại, đền Làng Hiếu ngày càng được nhiều người biết đến. Về với Cửa Lò, du khách ngoài việc đắm mình dưới làn nước trong xanh, cùng nhau nô đùa trên những bãi cát trắng thì cũng đừng quên một lần ghé thăm đền, để cảm nhận được sự thư thái, bình yên và nét khác biệt mà ngôi đền mang lại. Trong tương lai, tôi tin rằng, đền Làng Hiếu sẽ trở thành một điểm nhấn du lịch tâm linh hấp dẫn, song hành cùng với bãi biển Cửa Lò, tạo nên sự bứt phá trong phát triển kinh tế, xã hội của thị xã.
Lâm Thy














