Tản văn
Bây giờ thì cha tôi không còn nữa, nhưng những gì ông để lại cho con là các kỷ vật về chiến tranh và nhiều câu chuyện mãi không thôi về “đất nước triệu voi”. Ông kể về mùa mưa ở rừng phải sống chung với sên vắt và muỗi, về tình đồng đội thương nhau dưới những trận bom khắc nghiệt ở chiến trường thượng, hạ Lào. Cha luôn tự hào về những gì cha và đồng đội đã làm ở đất nước này hơn bất cứ điều gì.

Ông kể về mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt Nam-Lào là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt, trong sáng và hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.
Những kỷ vật chiến tranh ông còn giữ được coi như “người bạn” chiến binh tri kỷ hằng ngày: cái Bình tông, Ăng gô. Ông xuýt xoa nhớ mãi những câu chuyện về cái Ăng gô đã cứu cánh cho người lính, không có cái này coi như cụt tay. Ăng gô là vật dụng bất di bất dịch bởi nó có nhiều tác dụng đa đi năng: Dùng nấu nước, nấu cơm canh, nấu cá, đun kim tiêm cho y tá, múc nước tắm…Lúc hành quân, Ăng gô đựng các đồ linh tinh đi trong rừng hay công tác lẻ.
Ăng gô được chế tạo bằng loại nhôm đặc chủng có thân và nắp. Gắn liền với nắp là một chiếc “vít” to bản, chắc chắn. Khi đậy nắp, chiếc “vít” ôm chặt vào đáy khiến đồ ăn nước đựng bên rất an toàn cho dù phải di chuyển, vận động liên tục. Một chi tiết thoạt nhìn có vẻ đơn giản nhưng hết sức quan trọng đó là chiếc quai, bình thường giữ chức năng “quai xách” hoặc đeo vào dây lưng mỗi khi hành quân. Cha tôi kể, quan trọng nhất là khi nổi lửa, cứ việc mắc quai xách vào giá đỡ dã chiến đậy nắp rồi treo lên đoạn cành cây bắc ngang. Cấp tốc nhặt củi khô, rơm rạ vương vãi rồi châm lửa đun phía dưới. Cơm cạn nước vùi vào than hồng hoặc dùng cỏ khô, rơm rạ đốt phía trên. Chiếc nắp rất khít nên cơm nhanh chín và chẳng bao giờ bị tro than bụi bặm lọt vào. Cơm chín xúc ra ngay cái bát B52. Sau đó tiếp tục nấu thịt hộp, nấu cá (nếu có) rồi canh, nước uống cho vào bình bi đông để mang theo dọc đường.
Ngày mới được phát Ăng gô, những người lính rất thích, ai cũng khắc ngay tên mình vào và giữ gìn cẩn thận. Nhưng qua những lần sử dụng đun nấu, va chạm ở chiến trường nó bị tróc sơn nham nhở và méo mó. Vào chiến trường nhìn Ăng gô, nhìn tăng, võng là đoán được thời gian lính ở chiến trường bao lâu.
Cha tôi từ chiến trường trở về có tăng, võng, dù, ca uống nước, chậu nhôm, thìa, bát và ăng gô, bi đông, thi thoảng ông lại mang những kỷ vật ấy ra lau chùi ngắm nghía, sau đó cất xếp vào chỗ cũ.
Bọn trẻ chúng tôi ngày ấy cứ lôi đồ kỷ vật của ông ra dùng, sử dụng dần thành thói quen sinh hoạt của cả gia đình. Phải công nhận các vật dụng cha tôi mang về đều bền và quý. Dần dà cái bình đông, Ăng gô dùng để đựng nước, đưa cơm ra đồng ruộng vào mùa thu hoạch. Sau nữa, cái Ăng gô còn theo tôi đến trường đại học rồi cuối cùng nó lại quay về với người chủ là cha tôi, nó vẫn bền quý.
Cha tôi già yếu rồi bệnh tật, những ngày cuối đời, bạn bè chiến binh đến thăm cùng ngắm nghía cái…Ăng gô rồi rơi nước mắt! Ngày cha tôi về với tiên tổ, cái Ăng gô đã chính thức “chia tay” với ông. Chúng tôi cẩn thận rửa nó thật sạch rồi gói gắm vào tờ báo đặt ngay ngắn vào ngăn tủ. Bây giờ thì không ai dám đưa cái Ăng gô ra sử dụng nữa. Mỗi năm đến ngày 22/12 chúng tôi lại đưa ra nhìn tưởng nhớ tới cha tôi.
Đàm Quỳnh Ngọc















