“Từ Việt Bắc về Hà Nội” vừa ra mắt bạn đọc là tập 3 trong bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm” của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ (sẽ có 05 tập). Đây là cuốn tiểu thuyết dày dặn, công phu, khắc họa hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở 05 giai đoạn quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.
Tập 3 có tên “Từ Việt Bắc về Hà Nội” (xuất bản năm 2024), khắc họa hình tượng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ đầu năm 1941 đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Chiều 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khoảng thời gian 5 năm đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nhen nhóm và thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở địa đầu Tổ quốc “Non xa xa, nước xa xa/ Nào phải thênh thang mới gọi là/ Đây suối Lê Nin, kia núi Mác/ Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Khắc họa sinh động bức chân dung tâm hồn Nguyễn Ái Quốc
Cũng giống như ở hai tập đầu của bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm”, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ vẫn nhất quán với lối tự sự biên niên sử, chủ động tạo cho mạch truyện trôi theo trật tự thời gian tuyến tính. Người kể chuyện nêu lại những biến cố, những sự kiện quan trọng đã thực sự xảy ra; những con người có thật hay hư cấu xoay quanh nhân vật trung tâm Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhưng tác giả luôn tỉnh táo để không sa vào “bẫy lịch sử”; luôn đứng vững trên địa hạt sáng tạo của văn chương để soi rọi, phản ánh chiều sâu bên trong của nhân vật, nhất là tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, suy nghĩ, tài năng, phẩm cách của nhân vật trung tâm.
“…Đêm hôm ấy Nguyễn Ái Quốc gần như thức trắng. Nỗi xúc động như một đám mây bông quấn lấy ông. Ông nằm thật im lặng, cốt để nghe những âm thanh dù rất nhỏ trong đêm yên tĩnh dội vào qua vách nứa. Tiếng nước chảy, tiếng gió lùa, tiếng mấy con vịt lục sục chen chúc dưới gầm sàn, tiếng sừng trâu cọ vào gióng chuồng… Và, chao ôi, một mùi hương thật là thanh khiết phảng phất mãi. Hoa bưởi. Phải rồi, lập xuân rồi mà. Lúc bước lên nhà ông đã kịp nhìn thấy một cây bưởi mọc ngay bên hàng rào. Cây bưởi cao, gầy, có lẽ nó được mọc lên bởi một cái hạt vương rơi. Bây giờ thì những chùm hoa đang toả hương, thơm ngát, tràn ngập trong không gian giá lạnh…” (Tập 3, tr 16, Từ Việt Bắc về Hà Nội)
Hoặc “…Già Thu im lặng một hồi rồi nói: – Bà con sống cực khổ như thế nên chúng ta không thể làm gánh nặng cho bà con được. Ta phải tranh thủ trồng thêm rau màu, bắt cá bắt ốc thêm vào bữa ăn. Cháu Lâm lần sau về nhà không được lấy cái gì mang lên đây nữa nhé, phải nhớ đấy. Ở nhà còn có người già, còn có trẻ con, chúng ta ở đây sức dài vai rộng, phải cố làm mà ăn chứ. Mình mà không nuôi nổi mình thì làm cách mạng thế nào được. Dương Đại Lâm khẽ vâng. Già Thu hỏi tiếp: – Cháu có biết đọc biết viết không? Lâm trả lời: – Cháu có biết một ít chữ Nho do đi theo bố làm thầy tào, được bố chỉ cho ạ. Già Thu nói: – Chúng ta là người Việt Nam, ta phải biết chữ quốc ngữ. Người làm cách mạng là người đi trước nhân dân nên càng phải biết chữ. Biết chữ để đọc tài liệu, để tuyên truyền, để nâng cao sự hiểu biết cháu ạ. Từ hôm nay bác sẽ dạy cháu học chữ, được không? Dương Đai Lâm mừng quá, cuống lên: – Được thế thì cháu vui quá. Cháu chỉ sợ bác bận việc lớn thôi. – Bận thì ta cũng dạy được. Không khó mà, chỉ cần chăm chỉ thôi…”. (tập 3, tr 31, Từ Việt Bắc về Hà Nội”).
Xử lý hợp lý nguồn tư liệu lịch sử phong phú
Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã xử lý thỏa đáng một khối lượng tư liệu quý giá và đồ sộ mà không phải ai cũng có được. Và ngay cả nếu có, dù nhiều và quý đến bao nhiêu chăng nữa, nhưng không dụng công chọn lọc, sắp xếp, xâu chuỗi các nhân vật và tình tiết, kết hợp tính chân thực và sự hư cấu, sáng tạo thì tác giả chưa hẳn có được sự thành công.
Bối cảnh hiện thực đời sống của tập 3 diễn ra từ 1941 đến 1945, tình hình cách mạng Việt Nam tuy âm thầm bề ngoài nhưng sôi sục bên trong để chờ thời cơ bùng lên cơn bão táp lớn; tình hình của nước láng giềng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, của chính quyền Quốc dân; các nhân vật quan trọng của Liên Xô, của Mỹ hiện diện ở Trung Quốc; diễn biến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2; gương mặt bạc nhược của một số chính khách của Việt Quốc, Việt Cách, Việt Nam Phục quốc quân…đang lưu vong ở Trung Quốc…
Người đọc có thêm những bất ngờ thú vị khi biết thêm về những hoạt động phong phú, tầm nhìn chiến lược, sắc sảo của lãnh tụ Hồ Chí Minh khi Người hoạt động ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; những chuyến qua lại biên giới Việt – Trung như con thoi của Người để móc nối liên lạc với Đảng Cộng sản Trung Quốc, nắm tình hình của chính phủ Quốc dân; việc Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ hơn một năm, đày ải qua hàng chục nhà lao lớn nhỏ; hoàn cảnh ra đời của các bài thơ trong “Nhật ký trong tù”; tấm lòng quý mến của những người dân Trung Quốc với Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người; Người trở về nước, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945…
Người đọc sẽ thích thú và bị cuốn hút khi đọc các trang viết về việc lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; Người cho ra tờ báo Việt Nam Độc lập; Người chỉ đạo thành lập các đội du kích nhỏ, biên soạn tài liệu “Cách đánh du kích”; Người thiết lập các mối quan hệ khá sớm với đại diện nước Mỹ ở Trung Quốc và sau đó với nhóm “Con Nai” của Mỹ ở Tuyên Quang giữa năm 1945… Những chi tiết ấy từ lịch sử đã đi vào văn chương, tạo cho nhiều trang viết sự mới mẻ, hấp dẫn. Trong những trường hợp và bối cảnh nhất định, chúng mang ý nghĩa như là sự “phản biện ngầm” của tác giả đối với những “diễn giải” lịch sử theo quan điểm đối lập, sai trái. Ví như vấn đề “khoảng trống quyền lực” xảy ra vào thời điểm đế quốc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện để từ đó dẫn đến việc lực lượng Việt Minh “nhặt được chính quyền” (?!). Trong tư cách nhà văn và cũng là người hoạt động chính trị, Nguyễn Thế Kỷ không tranh luận về vấn đề này, nhưng tác phẩm của ông đã cho thấy rõ ràng: không hề có “chính quyền nhặt được”, mà tất cả đều là kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, nhiều sáng tạo, bản lĩnh; việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tầm nhìn chiến lược và nghệ thuật tận dụng mọi thời cơ tạo tình thế cách mạng, làm nổi rõ hình tượng nhân vật Hồ Chí Minh thực sự thiên tài.
Hình tượng Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn, một vẻ đẹp giản dị, gần gũi
Thêm điểm mới cần nhấn mạnh, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ luôn chú trọng và dụng công khi “đời thường hóa”, “bình dị hóa” con người và những phẩm chất vĩ đại của Hồ Chí Minh. Tác giả đã đặt nhân vật trung tâm Hồ Chí Minh vào một khung khổ không gian – thời gian phi sử thi, trong những điều kiện của môi trường sống bình thường vốn có. Đọc tập 3 của bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm”, ngay tiêu đề “Từ Việt Bắc về Hà Nội”, có thể thấy rất rõ điều đó.
Trong quan hệ giữa Hồ Chí Minh với những người đồng chí của mình như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn…, những người dân Cao Bằng chân chất mà nồng nàn yêu nước như ông Máy Lỳ, thầy tào Thình, anh thanh niên Dương Đại Lâm, chị phụ nữ Nông Thị Bảy (Nông Thị Trưng)…, nhân vật Hồ Chí Minh của Nguyễn Thế Kỷ bao giờ cũng thể hiện được những giá trị, những phẩm chất cao quý mà bình dị, gần gũi, tuyệt nhiên không “thần thánh hóa”, sùng bái hóa.
Ở Hồ Chí Minh luôn chan chứa lòng yêu nước, thương dân vô bờ; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc chân thành, sâu sắc; nguyên tắc cao nhất của Người là độc lập, tự do cho dân tộc; hạnh phúc, dân chủ, no ấm cho nhân dân; phương pháp và tư duy cách mạng của người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”, tuyệt đối không giáo điều, không máy móc; đạo đức của Người là “dĩ công vi thượng”, “chí công vô tư”, xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Những tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, phong cách đó được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, nhiều khi lặng lẽ, khiêm nhường; được Người thể hiện quan các bài thơ của “Ngục trung nhật ký”. Những năm tháng gian khổ ấy, Hồ Chí Minh đã lăn lộn cùng đồng chí, đồng bào để gây dựng lực lượng, tuyên truyền chính trị, huấn luyện cán bộ, tổ chức các đội du kích nhỏ, xây dựng các cơ sở cách mạng ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; không khí sục sôi tổng khởi nghĩa trong cả nước, nhất là ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cùng nhân vật chính, hình tượng cao đẹp Hồ Chí Minh và nhiều cán bộ, người dân trong các bối cảnh lịch sử cụ thể, thiên nhiên, cảnh sắc trong “Từ Việt Bắc về Hà Nội” được nhà văn Nguyễn Thế Kỷ khắc họa tinh tế, sinh động, cô đọng, giàu chất thơ. Lời ăn tiếng nói của nhân vật trung tâm Hồ Chí Minh và các đồng chí, đồng bào của Người; phong tục, tập quán; lời kể của tác giả và lời thoại của nhân vật cũng được thể hiện thành công.
“Sáng sớm, như thường lệ, Hồ Chí Minh thức dậy và đi ra sân tập thể dục. Dương Đại Lâm cũng đã thức dậy, đang lúi húi nhóm bếp nấu cơm sáng. Ông đi một vòng xung quanh khu căn cứ. Thấy anh chị em bố trí nơi ăn chốn ở khá sạch sẽ, gọn gàng, các căn nhà sàn nhỏ nhắn nằm liền kề nhau, những mảnh vườn trước nhà được rào dậu cẩn thận và rau quả đang lên xanh tốt. Đàn gà lục tục đi lại kiếm mồi từ sớm. Ông đi xuống khe nước rồi quay lên, gọi Dương Đại Lâm: – Chú Lâm đâu rồi? Lấy ra đây cho bác bốn cái cuốc. Lâm không hiểu ý ông muốn gì nhưng cũng lấy ra bốn cái cuốc. Ông gọi thêm 3 người nữa cả nam cả nữ, yêu cầu đi theo mình xuống khe suối. Bây giờ đã cuối thu, nước đã cạn. Ông yêu cầu mọi người dọn dẹp sạch sẽ xung quanh vũng có nhiều nước đọng nhất rồi bảo mọi người lên sân cùng khiêng xuống chiếc loỏng. Chiếc loỏng dài, được khoét khéo léo từ một khúc gỗ to, vẫn dùng để đựng nước ở dưới chân cầu thang các ngôi nhà sàn. Nhưng ở đây do gần sát con suối nên mọi người không dùng đến. Chiếc loỏng được kê ngay ngắn dưới bến nước vừa dọn, ông cọ sạch sẽ rồi cho nước chảy vào đầy loỏng. Xong xuôi, ông gọi hết lũ trẻ con xuống, cho đứng xếp hàng chờ ông tắm cho một lượt… Tắm gội cho bọn trẻ con xong, Hồ Chí Minh bảo Dương Đại Lâm mời tất thảy bà con cả làng đến để ông nói chuyện… Ông dùng một cái mẹt và một chiếc đèn dầu để minh hoạ cho hoàn cảnh đất nước hiện tại. – Tôi nói thế này để bà con dễ hiểu. Mặt trời hiện đang nằm bên kia trái đất, tức là ở đây. Còn chúng ta thì ở bên này trái đất, là đây. Thế nên chúng ta đang chịu cảnh tăm tối. Nhưng chẳng bao lâu nữa, mặt trời sẽ về với Việt Nam chúng ta, sẽ chấm dứt cảnh tối tăm khổ cực bấy lâu. Tôi có niềm tin chắc chắn như vậy, và bà con hãy vững tin như vậy”… (Tập 3, tr 123, 124, 125, Từ Việt Bắc về Hà Nội)
Tái hiện không gian lịch sử đất nước hào hùng
Ở phần cuối tập 3, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ khắc họa thật xúc động, hào hùng không khí đất nước ta trước ngày Tổng khởi nghĩa.
“Sáng sớm ngày 22 tháng 8, Hồ Chí Minh rời Tân Trào xuôi về Hà Nội. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời ông được đặt chân đến thủ đô của đất nước mình. Sau 30 năm lênh đênh bốn biển, đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, ông mới về tới mảnh đất thân thương nơi địa đầu Tổ quốc và 5 năm tiếp theo, bằng đường rừng là chủ yếu, ông đã đi từ Cao Bằng, qua Bắc Cạn, qua Tuyên Quang, Thái Nguyên rồi vượt sông Hồng về Hà Nội. Mấy hôm rồi, sức khoẻ của ông vẫn chưa tốt, trận ốm kéo dài đúng vào lúc nhiều việc lớn, đầy khó khăn ập đến…”
“Về gần tới Hà Nội, nạn lụt đang hoành hành dữ dội. Nhiều ruộng đồng chìm nghỉm trong mênh mông nước. Nhìn nước nhấn chìm cả những ngôi nhà, bờ cây, ruộng nương, lòng ông quằn quặn một nỗi đau xót không tả xiết. Độc lập đã gần kề rồi, nhưng trong lòng ông chưa bao giờ quên câu nói của Lênin – người thầy vĩ đại của ông: “Giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền còn khó hơn”. Giành, giữ chính quyền, giải quyết nạn đói, nạn thất học, cải thiện lối sống lạc hậu tối tăm, và nữa, các thế lực ngoại bang đang rắp ranh tiếm quyền, xâm lược…”..(tập 3, tr 181, Từ Việt Bắc về Hà Nội).
Nếu tập 4 và tập 5 của “Nước non vạn dặm” được hoàn thành đúng như dự kiến của tác giả (tập 4 sẽ ra mắt trước ngày 2/9/2024) và tập 5 ra mắt trước ngày 19/5/2025), thì đây là bộ tiểu thuyết đầu tiên của văn học đương đại Việt Nam phản ánh đầy đủ, sâu sắc và sinh động về thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là hình tượng Hồ Chí Minh, con người Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Hồ Chí Minh, thời đại Hồ Chí Minh.
Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ cho biết, cùng với bộ tiểu thuyết 5 tập, có 5 vở sân khấu cùng tên song hành, đã và sẽ ra mắt công chúng cả nước, trong đó vở “Nợ nước non”
do TS,NSND Triệu Trung Kiên làm đạo diễn đã ra mắt, phục vụ công chúng ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thận, Bình Thuận, Long An, Đồng Nai, Bình Phước và một số địa phương khác.
Trước đó tập 1 và 2 tiểu thuyết “Nước non vạn dặm” đã ra mắt độc giả vào các năm 2022, 2023.
Tập 1: “Nợ nước non” (xuất bản năm 2022), khắc họa hình tượng Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành lớn lên cùng lời ru đau đáu của bà, của mẹ thuở lọt lòng: “Con ơi nhớ lấy câu này/ Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm/ Làm người đói sạch rách thơm/ Công danh là nợ nước non phải đền”. Hơn 5 tuổi, Cung cùng cha mẹ và anh Khiêm phải xa bà ngoại, xa chị Thanh vào kinh đô Huế, ở đó gần 6 năm (1895 – 1901); sau khi bà Hoàng Thị Loan qua đời ở độ tuổi 33 trong căn nhà trọ chật hẹp ở Huế, ba cha con ông Nguyễn Sinh Sắc quay trở lại Nam Đàn, Nghệ An. Chuyến đi vào Huế lần thứ hai (1906 – 1909), tiếp đó là cuộc hành trình đi về phương Nam của hai cha con Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Tất Thành. Họ có cuộc gặp và chia tay tủi buồn, xa xót ở đất Bình Khê, Bình Định với lời dặn của cha “Nước mất thì nhà đâu còn…nước mất thì phải lo tìm nước, đừng mất công tìm cha” (tập 1, tr180, 181, NNN). Nguyễn Tất Thành vào trường Dục Thanh, Phan Thiết làm thầy giáo một thời gian ngắn rồi vào Sài Gòn để ngày 5/6/1911, rời thương cảng Sài Gòn vượt trùng khơi tìm đường cứu nước.
Tập 2: “Lênh đênh bốn biển” (xuất bản năm 2023) khắc họa hình tượng Nguyễn Tất Thành, trong tên mới Nguyễn Văn Ba, xuống con tàu biển mang tên Đô đốc Latouche Tresville sang phương Tây tìm đường cứu nước. Như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”. Ở Pháp, Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và một số người yêu nước gốc Việt gửi “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Versaille (1919); Ngày 29/12/1920, cùng với đa số tuyệt đối đại biểu tham dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại Thành phố Tours, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ III, và Người là một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1922, Người sáng lập báo “Người cùng khổ” (Le Paria), ngay bài viết cho số đầu tiên, Người khẳng định sứ mệnh tờ báo là “giải phóng con người”.
Ở trời Tây, vừa vất vả lao động kiếm sống, vừa đau đáu tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc nhận rõ một sự thật đầy tủi buồn, uất hận: chính chủ nghĩa tư bản, bè lũ đế quốc thực dân là những kẻ gây ra mọi áp bức, bóc lột, đau khổ cho công nhân, nông dân và các tầng lớp khác ở thuộc địa và ở ngay cả chính quốc. Sau này, Người kể: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ Ba”. Qua hoạt động yêu nước, tìm đường đi cho dân tộc, Người hiểu rõ “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” . Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu sơ thảo Luận cương của V.I. Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề thuộc địa. Năm 1925, Người xuất bản “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Đi trọn 30 năm từ Đông sang Tây, từ Tây về Đông qua Pháp, Anh, Mỹ, châu Phi, châu Úc, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan…để có sự kiện ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng, Hồng Kông, Trung quốc, Người đại diện cho Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản trong nước thành một chính đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng… do chính Người soạn thảo, đưa cách mạng Việt Nam bước vào trang sử mới. Ngày 28/1/1941, Người có chuyến trở về Tổ quốc như một mốc son chói lọi.
“Nước non vạn dặm”, tập 3 của bộ sách “Từ Việt Bắc về Hà Nội” do Nhà xuất bản Văn học và Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Liên Việt liên kết xuất bản, phát hành, ra mắt vào tháng 5/2024 nhân kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
PV