LTS: Hà Nội – trái tim của người Việt, luôn là là cõi thiêng với mỗi người con Việt Nam, dù sinh sống trên mảnh đất kinh thành hay bươn bả trên mọi miền quê, trên mọi đất nước xa xôi, đều thấy đều thấy ngân rung những cảm xúc khó tả mỗi lần vang lên giai điệu thân thương: Hà Nội – thủ đô yêu dấu!
Một góc phố, một con đường, một mái nhà, thậm chí một làn gió, một chiếc lá rơi thôi cũng mang “hơi thở” Hà nội riêng khác đối với những ai sống và yêu mảnh đất kinh kỳ này. Mỗi người có những cách lý giải riêng cho tình yêu ấy. Là một người con xứ Nghệ nhưng học tập, lập nghiệp, thành danh và gắn bó gần như trọn đời với Hà Nội, GS Phong Lê dành một tình cảm đặc biệt để nhìn thấy Hà Nội trong “mắt… mình” với một niềm tri ân, nâng niu, trân trọng!
Xin phép được mượn một tên phim rất nổi tiếng của nhà điện ảnh tài năng Trần Văn Thủy: Hà Nội trong mắt ai công chiếu vào cuối thập niên 1980 để đặt tên cho bài viết này của tôi. Bài viết có tham vọng đi tìm một nét đặc trưng nào đó làm nên “phẩm chất Hà Nội” – nếu như phẩm chất đó là có, xuất phát từ hai câu thơ ai ai cũng thuộc:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

∗
Ngót 70 năm sống ở Hà Nội, với bất cứ cộng đồng dân cư nào, tôi cũng có chủ ý quan sát xem họ và mình có mang được một chất lượng sống gì mới, để được gọi là cư dân Hà Nội không? Bởi từ các môi trường sống quen thuộc là cơ quan, trường học, phố xá, nhà ga, vườn hoa, bến xe, bệnh viện, cửa hàng, nhà máy, doanh trại quân đội… tôi thấy nhân quần ở tất cả những nơi đó đều mang dáng vẻ “ngụ cư”. Họ đều là những người ở khắp các vùng miền trên cả nước về Thủ đô rồi lập nghiệp. Vậy ngụ cư và cư dân bản địa – biết thế nào mà phân biệt? Nhưng cũng không phải là không phân biệt được. Cái truyện ngắn nổi tiếng Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu là nói về cái bộ phận dân xứ Nghệ ra cư trú ở Hà Nội và mang theo trọn vẹn thói quen của họ. Chắc chắn với số khá đông cư dân “ngụ cư”, là người ở khắp nơi đến cư ngụ ở Hà Nội rồi trở thành dân Hà Nội – thì bất cứ khái niệm nào, mỹ từ nào dành cho Hà Nội cũng đều mang theo một nghĩa mới, cho thích hợp với hoàn cảnh sống bỗng trở nên thay đổi gấp rút trong cả một thế kỷ XX cực kỳ sôi động này. Như vậy là Hà Nội đã làm thay đổi họ và họ cũng góp phần làm thay đổi Hà Nội, để có Hà Nội trong thời chiến và Hà Nội trong thời bình; Hà Nội nơi công sở và Hà Nội ở ngõ chợ; Hà Nội trung tâm và Hà Nội ngoại ô; Hà Nội tôn nghiêm và Hà Nội lam lũ; Hà Nội ở hẻm sâu và Hà Nội mặt tiền… Mỗi nơi là một diện mạo riêng và vấn đề là làm thế nào để tìm được một mẫu số chung cho tất cả?
Hãy tìm về cái gọi là “phố cổ” – nơi cư ngụ của lớp dân cư đã sống ở đây qua nhiều đời: Hàng Chiếu, Hàng Mành, Hàng Đồng, Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Đường, Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Hàng Rươi, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Cót, Hàng Bài, Hàng Giày, Hàng Khay, Hàng Mã, Hàng Hòm, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Bè, Hàng Thùng, Hàng Bún, Hàng Trống, Hàng Lọng, Hàng Lược, Hàng Tre, Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng Gà, Hàng Da, Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Bông và Thợ Nhuộm… Nhiều đời cũng có nghĩa là có cái đầu đời – họ từ nông thôn mà ra, từ sự phân hóa chậm chạp nghề nông và nghề thủ công, để có một lớp người thủ công – lành nghề, chọn Kẻ Chợ làm nơi sinh sống, để thoát khỏi sự cản trở và phong bế của kinh tế làng. Nơi đó bây giờ được gọi là trung tâm, là phố cổ, và từ nhiều năm nay, chính quyền thành phố đã chọn làm khu đi bộ, phục vụ cho nhu cầu du lịch. Đến từ nhiều nơi để thành cư dân Hà Nội, từ rất lâu đời, khi Hà Nội còn là Kẻ Chợ, họ vừa mang theo dấu ấn của quê gốc, lại được Hà Nội hóa theo thời gian – để có những nét mới. Việc quan sát, ghi nhận cung cách sinh hoạt của họ có thể cho ta nhận ra nét dáng gọi là thanh lịch chăng? Tôi hy vọng ở sự tìm kiếm này, và tìm ra lý do cho sự thích thú xem ngắm cảnh quan và con người phố cổ, chẳng phải riêng khách du lịch nước ngoài, mà cả cư dân nội địa khắp các vùng miền, mỗi lúc có cơ hội về thăm Thủ đô thế nào cũng phải về cho được Bờ Hồ và chợ Đồng Xuân, Tràng Tiền và Tràng Thi… Nhưng nếu cách đây trên dưới một thế kỷ, qua các bức ảnh cũ, qua những ghi chép trong thư tịch, qua thơ văn và minh họa trên Đông Dương tạp chí và Nam phong tạp chí, trên Phong hóa và Ngày nay… khi các thiếu nữ và phụ nữ Hàng Đào bỗng từ răng đen chuyển sang răng trắng, từ áo tứ thân chuyển sang áo Lemur, từ khăn vuông mỏ quạ chuyển sang tóc vấn trần bỏ lõi… được xem như là nét dáng thanh lịch; thì từ bấy đến nay, Hà Nội đã có quá nhiều thay đổi, để chẳng còn chút dấu tích gì của một thời xưa.

Và nếu Hà Nội xưa có một nơi, để bây giờ gọi là “phố cổ”, thu gọn trong phạm vi 36 phố phường thì Hà Nội trong hơn một thế kỷ nay luôn luôn có một “ngoại ô”, một ven đô mỗi ngày một nới rộng ra, rồi chuyển thành nội đô, khắp cả bốn phía, tỏa ra khắp năm cửa ô, để từ dăm chục vạn dân mà lên đến bảy, tám triệu người bây giờ. Vậy cái ngoại ô ấy, ăn nhập ra sao, và liên hệ gì với cái Hà Nội thanh lịch ta đang bàn? Những cái ngoại ô, với đủ mọi dáng nét, hình thù của nó đã sớm có mặt trong phóng sự của Nguyễn Đình Lạp, trong tiểu thuyết của Nam Cao; trong hồi nhớ và truyện ngắn của Tô Hoài trong văn học trước 1945…
Bàn về người Hà Nội trong một cơn giao chuyển lớn của lịch sử, để đi dần vào quỹ đạo của thời hiện đại không thể không bắt đầu với không gian đặc trưng này của Hà Nội, không chỉ với Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao, Tô Hoài mà còn rộng ra cả phong trào, trào lưu hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Trọng Lang…
Nhân tên gọi “ngụ cư”, tôi muốn nghĩ thêm một đôi điều, có liên quan xa gần với vấn đề chúng ta đang bàn. Dường như chỉ Hà Nội (cùng với Sài Gòn) mới có một ý niệm về “ngụ cư” trong ý nghĩa mới như thế. Đó là sự hòa nhập, không có phân biệt và kỳ thị – khiến cho dân ngụ cư phải trở thành dân loại hai, hoặc loại bét trong văn hóa làng khép kín, phải dạt ra sống ở bìa làng, để chịu thân phận sai bảo, truyền đời làm mõ, hoặc biến dạng thành Chí Phèo. Chỉ Hà Nội (và Sài Gòn) là nơi hội được một cách bình đẳng mọi tinh hoa của nhiều nơi, và cả những gì chưa phải là tinh hoa, thậm chí là đối lập trong một sự thanh lọc lớn, để làm nên một biểu tượng chung là Hà Nội…

∗
Sau câu chuyện dân ngụ cư, và cảnh quan ngoại ô, tôi muốn tìm đến người trí thức, như một vùng sống quan trọng cho ta hiểu cái gọi là thanh lịch – như là nét riêng hoặc nói đúng hơn, nét nổi đậm của Hà Nội. Người trí thức Hà Nội trong lịch sử, từng có tên gọi chung là sĩ phu Thăng Long, hoặc sĩ phu Bắc Hà, đã làm nên cốt cách và tinh hoa của đất nước. Chuyển sang thời hiện đại, cũng người trí thức trong chiều dài hơn một thế kỷ, kể từ “Vĩnh – Quỳnh – Tố – Tốn” được gọi là “Tứ hổ Tràng An” làm nên gương mặt tinh thần cho một chuyển đổi lớn của lịch sử. Trên mọi lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học, người trí thức trong đích đến là Cách mạng Tháng Tám 1945 gần như tất cả đều quy tụ xung quanh Chính phủ Hồ Chí Minh, để cùng toàn dân làm nên một cuộc đổi đời của dân tộc và góp phần tạo nên gương mặt của đất nước sau 1945. Làm giàu cho vốn văn hóa dân tộc, trên nhiều lĩnh vực – ở đây không kể các lĩnh vực khoa học xã hội và tự nhiên, đó là những tên tuổi đứng ở hàng đầu nền văn học hiện đại, như Nguyễn Tuân hay Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng hay Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng hoặc Tô Hoài… rồi tiếp đến là cả mấy thế hệ viết nối tiếp nhau sau 1945, chính họ là những người, qua tác phẩm, đã góp công phát hiện, đồng thời cũng là người lưu giữ một biểu tượng rõ nét thế nào là giá trị, là phẩm chất, là tinh hoa – gồm cả nét thanh lịch của người Hà Nội.
Nhưng là nghệ sĩ – họ lại là những con người rất khác nhau, và do khác nhau nên sự sống mới hiện lên đa dạng đến thế. Và xét về nguồn gốc thì dường như số lớn trong họ là “ngụ cư”, không phải có gốc gác lâu đời ở Hà Nội. Họ đến Hà Nội, rồi trở thành người Hà Nội, bởi nghề nghiệp của họ chỉ có thể phát triển và thành tài ở Hà Nội. Bởi nếu không ở Hà Nội, nếu không có bầu không khí và môi trường văn hóa ở Hà Nội, như một đối tượng để quan sát và nghĩ ngẫm, sẽ không có những trang viết nói với ta vừa là cái thanh lịch, vừa là những gì chung quanh nó, làm nên nó, bồi đắp cho nó, để đem lại một dấu ấn riêng, đặc trưng riêng của Hà Nội, trong phân biệt với nhiều nơi.
Vậy là, sự thanh lịch, cũng như bất cứ phẩm chất nào khác là một khái niệm động. Bởi Hà Nội đang phát triển và mở rộng trên mọi mặt, mọi quy mô của sự sống vật chất và tinh thần. Bởi Hà Nội hội đủ tất cả những gì có trong cả nước. Khó có một nội hàm xác định. Và khó có sự xác định cho một lần. Ở góc nhìn của khoa học, cần những dữ liệu, những điều tra theo kiểu xã hội học, cần những đối chiếu, phân tích, bác bỏ hoặc xác minh. Ở góc nhìn của nghệ thuật, cần tìm đến sự kết tinh của nó trong các thành tựu và tên tuổi của văn chương, hội họa, âm nhạc, kiến trúc, sân khấu, nhiếp ảnh, điện ảnh… Mở rộng ra thì thật là mênh mông. Khi đi vào hội họa của Bùi Xuân Phái, Trần Văn Cẩn, Dương Bích Liên… Khi đi vào âm nhạc của Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đức Toàn… Khi đi vào sân khấu, với Thế Lữ…, vào kiến trúc với Nguyễn Cao Luyện…, vào nhiếp ảnh với Võ An Ninh… Trong bài này tôi chỉ có thể tản mạn rút từ văn chương, và trong văn chương tôi cũng chỉ giới hạn trong một số ít tác giả. Bởi lẽ trong văn chương, hầu như tất cả các tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại, đều gắn với Hà Nội. Cho đến bây giờ, trên tổng số hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thì có ngót một nửa sống và viết ở Hà Nội. Dẫu đến từ nhiều nguồn, nhiều nơi, vẫn không thể không gọi họ là cư dân của Hà Nội. Những người đã được hưởng những gì Hà Nội có, và có đóng góp ít nhiều cho Hà Nội.
∗
Cuối cùng, xin được trở về với hai chữ “thanh lịch”, với cách hiểu như thế nào về nó? Chiết tự ra thì “thanh” gợi nghĩ sự thanh tú, thanh nhã, thanh cao, thanh tao, thanh đạm, thanh khiết… Còn “lịch” là kinh lịch, là lịch thiệp, lịch duyệt, lịch lãm… Một ông bạn tôi thì hiểu là “nền nã”. Nhưng “nền nã” e có hơi chật. Theo cách hiểu quen thuộc, “nền nã” thường gợi nghĩ sinh hoạt của những gia đình có nền nếp, có gia giáo, vì nó gắn với gia phong, với nếp nhà, trong một xã hội yên ổn, bình lặng… “bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng”. Thế mà cuộc sống ở ta, như cuộc sống thế kỷ XX này lại quá nhiều đổi thay, xáo trộn. Chỉ cần nhìn vào ăn, mặc, ở, đi lại, làm lụng, ăn chơi… trong khoảng hơn một nửa, hoặc hai phần ba thế kỷ qua thấy chẳng có gì là… như cũ.
Tôi muốn đi tìm một phẩm chất gì khác để nói lên được nét cơ bản gắn với Hà Nội, trong phân biệt với nhiều nơi. Và cảm thấy khó khi chỉ dùng một khái niệm, kể cả nhiều khái niệm. Với người Hà Nội, trong tổng hòa tất cả các thành phần của nó, đó là cách ứng xử bao dung và lịch thiệp, không địa phương, không cục bộ, không gây mặc cảm, không tỏ ra kỳ thị; là sự coi trọng các giá trị văn hóa và tinh thần, và rộng ra là coi trọng con người; là một quan niệm rộng rãi cho tự do và chính kiến cá nhân… Nếu không có những cái đó sẽ không có Hà Nội với nhiều thời hưng thịnh rực rỡ như xưa nay đã có, và như Hà Nội hôm nay. Chính với cách ứng xử như thế mà ai được sống ở Hà Nội, ai trở thành cư dân Hà Nội (với bức tranh xã hội rộng rãi bao gồm các sắc màu khác nhau, hoặc đối lập nhau như được tản mạn rút ra qua văn học như trên) cũng đều tìm được một khí hậu, một không gian sinh tồn; và trong bươn chải của muôn mặt đời thường, có vất vả, cực khổ đến mấy, con người vẫn có thể sống với nhau trong một không gian đáng tự hào là không gian Hà Nội.
Còn đứng về phía các giới lãnh đạo thành phố, tôi nghĩ ở một vài phương diện nghề nghiệp nào đó, cũng giống như nhà văn, họ cần có một năng lực phát hiện, và chính bản thân họ cũng phải ít nhiều là hiện thân cho những gì làm nên phẩm chất, giá trị tinh hoa của người Hà Nội. Và như vậy, đứng về phía là cư dân Hà Nội, chúng ta mong họ: hãy giảm nhẹ mọi khó khăn, vất vả, làm thương tổn đến con người. Hãy sao cho xứng với cái nơi là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của cả nước; và do thế cũng là nơi xứng đáng cho cả nước ngưỡng vọng.
Những gì cả nước có Hà Nội cũng đều có. Hà Nội không cô lập mà gắn bó với cả nước. Người Hà Nội không phải là một loại đặc chủng, đứng riêng, hoặc đứng ra ngoài cộng đồng người Việt Nam. Nhưng do khả năng tiếp nhận và gạn lọc kỳ diệu (hoặc vĩ đại) của nó, Hà Nội vẫn có một gương mặt riêng, được gọi là “người Hà Nội”, với “phẩm chất Hà Nội”.
Phong Lê














