Có nhiều điều để nói về TS Mai Liêm Trực – nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông,  góp công lớn mở đường  đưa Internet vào nước ta và từng được bình chọn là người có ảnh hưởng nhất tới sự phát triển của Internet tại Việt Nam. Gia đình ông Mai Liêm Trực – cả 3 anh em đều từng giữ chức bộ trưởng và đều chủ động xin nghỉ hưu để nhường cơ hội cho người trẻ. Với vẻ ngoài trầm lặng, nhưng ông Mai Liêm Trực trở nên sôi nổi khi trò chuyện với tôi về Internet, về cuộc cách mạng 4.0 và hành trình chuyển đổi số ở Việt Nam. Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6), Tạp chí Sông Lam xin gửi tới quý bạn đọc những chia sẻ của ông: 

TS Mai Liêm Trực – nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông.

 Gia đình 3 bộ trưởng

Nhà tôi có 2 gái, 6 trai. Anh cả tôi là Mai Kỷ, tên ông nội đặt với ý nghĩa phải giữ được kỷ cương. Còn lại, mấy anh em trai đều có tên là Trực – Khám Trực, Trọng Trực, Liêm Trực, Ái Trực, Bảo Trực. Cha tôi đặt tên vậy để gửi gắm các con sau này phải sống chính trực, thật thà. Nhà tôi nghèo, nhưng hiếu học, ông nội phải lao động rất vất vả để cho cha tôi từ Bình Định ra học Trường Bưởi ở Hà Nội. Cha tôi – cụ Mai Cù đỗ thành chung,  học một năm bán tú tài. Năm 1946, cha tôi vào Đảng, làm Chánh văn phòng UBKC Bình Định, rồi Trưởng ty Tài chính. Năm 1954 cụ tập kết ra Bắc.

Tuổi thơ của tôi trôi qua ngắn ngủi và nhọc nhằn dưới những bóng dừa Tam Quan. Một hôm, cả nhà đang ăn cơm tối thì có một người đàn ông đến bảo má tôi cho một thằng con ra Bắc học. Má tôi suy nghĩ một lúc rồi bảo: “Thằng Nhật Em đi” (Nhật Em là tên gọi ở nhà của tôi). Hôm sau tôi lên một chiếc tàu thủy đen xỉn, không giường chiếu. Hành trang tôi mang theo không có gì ngoài những điều mà ông nội và cha đã gửi gắm trong chính cái tên của mấy anh em tôi.

Cha tôi ra Hà Nội khi đã 50 tuổi, ngày đi làm, tối vẫn miệt mài chong đèn học ngoại ngữ. Anh cả Mai Kỷ đang học dở lớp 11 thì “xếp bút nghiên” vào bộ đội (Sư đoàn 312) đánh Pháp, năm 1953 được cử sang Liên Xô học chuyên ngành luyện kim. Anh Mai Kỷ học giỏi, năm 1959, về nước được mời làm giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội.

Năm 1963, tôi được cử sang Đức học ngành vô tuyến điện. Học xuất sắc, về nước tôi ghi nguyện vọng công tác: “Đã ăn cơm của Đảng, của dân mòn răng nên về nước nguyện làm bất cứ điều gì”. Nhưng câu đó bị nhiều người phê bình vì bị cho là mỉa mai chế độ phải ăn cơm độn ngô. Đó là thực tế của tôi, vì xa nhà khi mới 10 tuổi, ăn cơm dân nuôi cho đến lúc trưởng thành, cho nên giao việc gì tôi nguyện làm hết lòng, không nề hà, kén chọn. Suy nghĩ này gắn với cả đời tôi.

Tôi làm kỹ sư lưu động trong thời chiến, khi hòa bình, tôi tiếp tục sang Đức bảo vệ luận án Tiến sĩ. Lúc đó, tôi đã sử dụng thành thạo 5 ngoại ngữ. Năm 1983, khi đang làm Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, tôi tình nguyện sang công tác 3 năm ở Campuchia, đi khắp đất nước Biển Hồ đầy bom mìn và phục kích.

Hành trình trở thành bộ trưởng của 3 anh em trong gia đình ông như thế nào? Hình như cả 3 anh em ông đều đã muốn “tránh” cái vị trí quyền cao chức trọng đó?

Năm 1997-2002, tôi kế nhiệm ông Đặng Văn Thân làm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện (đơn vị tiền thân của Bộ Bưu chính Viễn thông Việt Nam). Năm 2002, trước khi thành lập Bộ mới, tôi được cấp trên đề nghị giữ chức Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông. Nhưng tôi trả lời: “Chính phủ mới thành lập hai Bộ mới (Bưu chính Viễn thông và Tài nguyên Môi trường), hai anh em tôi đều làm Bộ trưởng trong một nhiệm kỳ có gì đó không hay. (Em trai ông Mai Liêm Trực là Mai Ái Trực lúc đó được bổ nhiệm Bộ Trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường-PN).

Trong gia đình tôi, anh cả tôi ba lần được Thủ tướng Võ Văn Kiệt đề nghị làm Bộ trưởng thì lần thứ ba mới nhận và nhận một công việc nhẹ nhàng hơn, chứ khi được đề nghị làm Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, anh cả tôi bảo sức yếu rồi mà làm Văn phòng Chính phủ thì không đủ sức.

Đến năm 1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại gọi ông lên vỗ vai bảo: “Cậu về phụ trách cho tôi công tác dân số. Giờ gay lắm, dân số tăng nhanh quá, kinh tế không phát triển được”. Việc khó này anh tôi nhận, dù có dư luận: “Giáo sư luyện kim thì biết gì mà đi đặt vòng tránh thai, hay muốn kiếm chác chức Bộ trưởng?”. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, tốc độ tăng dân số đã được kiềm chế. Năm 1995, khi công tác dân số đã ổn định, anh tôi đã viết đơn xin nghỉ hưu.

Sau một nhiệm kỳ Bộ trưởng, Mai Ái Trực – em trai tôi được Trung ương giới thiệu ra Đại hội Đảng để làm tiếp nhưng cũng xin rút. Còn tôi, ở Đại hội Đảng lần thứ Chín cũng được đề cử vào danh sách để bầu cử, nhưng tại đại hội thì tôi cũng chính thức xin rút vì cảm thấy mình nhiều tuổi rồi.

Giờ đây, anh cả Mai Kỷ đã qua đời, anh Mai Trọng Trực đi bộ đội, hy sinh ở chiến trường khu VI, chưa vợ con gì. Em út Bảo Trực ở nhà với má, bị bắt đi lính rồi chết trận ở nơi nào không rõ. Ở tuổi này, nhìn lại chẳng dám nói cao sang, anh em chúng tôi đã xứng đáng với chính cái tên cha ông đã đặt.

Đưa Internet vào Việt Nam – “đường đi khó”

Từ những năm 90, ông được cho là người tiên phong trong việc thuyết phục và dám “thế chấp” chiếc ghế Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện của mình để tạo niềm tin cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa Internet vào Việt Nam năm 1997. Đó hẳn là “đường đi khó” ?

Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Internet vào năm 1991, trong một hội nghị quốc tế tại Washington DC. Lúc đó, tôi thấy văn phòng của các đoàn họ gõ tài liệu vào máy tính rồi dùng đường dây điện thoại để truyền thư đi. Trong khi ở Việt Nam lúc đó chuyển một bức thư đi khó lắm, đi vùng sâu, vùng xa mất hàng tuần, chưa nói tới việc chuyển đi thế giới. Tôi tự nhủ, nhất định phải đưa Internet về Việt Nam.

Không những tôi mà rất nhiều người đều mất ăn mất ngủ. Còn nhớ năm 1996, Thái Lan đã kết nối Internet thành công. Kết thúc một buổi làm việc với chúng tôi, trưởng đoàn người Thái Lan rất hồ hởi, thay vì câu chào “See you again!” ông ấy lại nói: “See you on Internet!”. Lời chào ấy càng khiến mình sốt ruột, trăn trở khi trong nước công nghệ bưu chính viễn thông sau giai đoạn đổi mới quyết liệt, cơ sở kỹ thuật đã khá ổn với đài vệ tinh, hệ thống kỹ thuật số, cáp quang…

Muốn đưa Internet vào hoạt động, Việt Nam phải đáp ứng 3 điều kiện: Trước hết mạng viễn thông phải số hóa và tự động hóa, kết nối trong nước cũng như thế giới qua các đài vệ tinh. Thứ hai, phải có đơn vị nắm được kỹ thuật công nghệ Internet; xây dựng cơ sở vật chất từ cổng kết nối tới hệ thống sever… Cuối cùng, cũng là điều kiện quan trọng nhất: Phải được sự chấp thuận của lãnh đạo cao cấp Đảng, Nhà nước và Chính phủ, bởi thời đó tư duy quản lý vẫn coi Internet là cái mới, nhạy cảm. Xuất hiện nhiều lo ngại từ cán bộ cấp cao về lộ bí mật Nhà nước, ảnh hưởng tới chủ quyền, an ninh quốc gia, văn hóa đồi trụy xâm nhập… Chỉ từ sự đồng thuận cấp cao, mới nghĩ tới việc xây dựng hành lang pháp lý, quy định vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ để quản lý Internet… Tác động mạnh nhất tới quyết định của lãnh đạo Đảng và Nhà nước chính là niềm tin vào những con người trực tiếp thực hiện. Cái gì cũng có mặt lợi, mặt hại, anh phải hiểu bản chất vấn đề, hiểu một cách rõ ràng, cụ thể.  Anh phải dũng cảm giải trình, phải biết cách thuyết phục, giải tỏa những lo ngại để làm sao giúp các lãnh đạo thấy được mở cửa Internet sẽ tốt hơn là đóng kín.

Tôi còn nhớ trước khi Internet chính thức hoạt động, tôi và anh Nguyễn Khánh Toàn – lúc ấy là Thứ trưởng Bộ Công an, anh Chu Hảo – Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã có buổi báo cáo thuyết trình với Thường trực Bộ Chính trị. Chốt lại buổi báo cáo, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu ngày ấy đặt câu hỏi: Liệu có ngăn chặn được lộ bí mật Nhà nước hay không? Anh Toàn ngập ngừng đáp: “Về mặt văn bản là chặt chẽ”. Về phần mình, tôi thẳng thắn báo cáo: “Không thể nào ngăn chặn hết, chỉ có thể sử dụng những biện pháp để hạn chế mà thôi. Thực tế, ngay cả với biện pháp gửi thư tín qua đường bưu điện vẫn có nguy cơ bị lộ”. Lúc đó bí mật Nhà nước rất quan trọng, nó thành phản xạ tự nhiên. Chúng tôi thuyết phục về cái lợi của Internet, đồng thời cũng nói về những giải pháp để hạn chế những mặt tiêu cực của Internet. Sau đó, cụ Lê Khả Phiêu bảo, phải qua báo cáo Thủ tướng Chính phủ, khi đó là Thủ tướng Phan Văn Khải. Chúng tôi báo cáo Thủ tướng tại nhà riêng, nhưng Thủ tướng cũng thể hiện sự lo lắng, vì đó là trách nhiệm chung của lãnh đạo đất nước. Khi tiễn tôi ra đến cổng, Thủ tướng quàng tay lên vai tôi, vỗ vỗ, bảo: Trực cố gắng quản lý Internet cho tốt, chứ nếu mở ra mà phải đóng lại, thì không biết phải ăn nói với thế giới thế nào. Lời dặn dò của Thủ tướng nhẹ nhàng, nhưng còn nặng hơn cả các chỉ thị, nghị quyết, khiến cho mình luôn luôn cầu thị, đầy trách nhiệm.

Cuối cùng, ngày 19/11/1997, Internet chính thức vào Việt Nam, và chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra những thay đổi to lớn. Sau này, tôi cũng gặp lại nhiều đối tác nước ngoài, họ cho biết chính động tác này đã làm họ yên tâm chọn Việt Nam là nơi đầu tư sản xuất.

Khi ông giữ chức Thứ trưởng Thường trực Bộ Bưu Chính – Viễn thông, ông đã tự phá thế độc quyền của ngành Bưu chính Viễn thông bằng cách cấp phép cho những công ty tư nhân như FPT được khai thác Internet. Lúc đó báo chí gọi ông là “vị thứ trưởng tự chống độc quyền”. Vị thế độc quyền thống lĩnh thị trường quá đặc quyền đặc lợi cho ngành mình, sao ông lại chống?

Nếu như các dịch vụ viễn thông của Việt Nam mở ra chậm hơn thế giới khoảng 40-50 năm, dịch vụ điện thoại di động chậm hơn của thế giới khoảng 15-20 năm thì Internet vào Việt Nam chỉ chậm hơn so với khởi đầu của thế giới chỉ chừng 7-8 năm. Mọi người đều biết, Internet thay đổi toàn bộ đời sống xã hội của nước ta, nhưng đứng ở góc độ ngành Viễn thông thì đây là thí nghiệm đầu tiên về chống độc quyền.

Năm 1995 tôi làm Tổng giám đốc VNPT, ngành Bưu chính Viễn thông phát triển rất tốt, nhưng một số cán bộ của VNPT đã bắt đầu có những biểu hiện của sự cửa quyền, coi mình như người “ban phát” dịch vụ cho xã hội. Sau khi tôi lên làm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, trong một ngày tôi ký 04 giấy phép cho 04 nhà khai thác Internet là VDC, FPT, NetNam và Saigonnet. Thời điểm đó, xã hội chưa lên án nhiều về chuyện độc quyền nhưng là người trong cuộc, tôi nhận thấy không có cạnh tranh thì không thể phát triển, phải cương quyết mở cửa.

Tiếp đó, tôi cấp phép cho Viettel mở dịch vụ VolP – điện thoại qua Internet. Đây là lần đầu tiên có điện thoại giá rẻ, cũng là lần đầu tiên có nhà khai thác thứ hai tham gia thị trường viễn thông ngoài VNPT. Tôi vẫn nhớ buổi tối hôm đó, khi ngồi xem quảng cáo trên tivi, thấy quảng cáo dịch vụ 178 – gọi điện giá  rẻ của Viettel, tôi đã sững người trong một phút, dù chính tôi là người đã ký văn bản cấp phép cho nó ra đời. Lúc đó báo Lao Động đã viết: “Bưu điện tự chống độc quyền”. Tôi có một niềm hạnh phúc rất giản dị: Đó là mỗi ngày khi tôi mở cửa bước ra đường, thấy anh xe ôm, chị đồng nát, cô bán rau trước cửa nhà đang cầm chiếc điện thoại trò chuyện với ai đó. Điện thoại liên lạc cuối cùng đã có thể đến với đại đa số người dân. Những lúc như thế càng củng cố niềm tin chắc chắn rằng quyết định xóa bỏ độc quyền là đúng đắn.

Điểm nghẽn lớn nhất: ngại thay đổi trong khi phải thay đổi

Internet vào Việt Nam đã hơn 20 năm, đến thời điểm này ông nhận thấy Internet đã chuyển hóa, chuyển đổi cuộc sống của xã hội và cá nhân mỗi chúng ta như thế nào so với trước đây?

Internet chính là kỳ quan vĩ đại nhất của nhân loại tác động đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta, hằng ngày nhiều người đang dành tới 3-4 giờ online, con người có thêm một cuộc sống khác: cuộc sống online. Nhưng trong giai đoạn hiện nay thì Internet đã chuyển sang một thế hệ mới đó là Internet vạn vật. Nếu 20 năm trước người ta gọi là Internet tối đa kết nối bảy tỷ người, tức là Internet of People (IoP), thì bây giờ Internet kết nối tất cả vạn vật từ sinh vật đến con người, đất đai, nhà cửa, xe cộ… Tất cả được kết nối. Có đến hàng trăm tỷ kết nối, gọi là thời đại Internet của vạn vật – Internet of Things (IoT) với lượng dữ liệu lớn vô cùng.  Cùng với đó là sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ số như điện toán đám mây giúp người dùng có thể truy cập vào bất cứ tài nguyên nào trên đám mây, vào bất kỳ thời điểm nào và ở bất kỳ đâu, chỉ cần kết nối với hệ thống Internet.  Rồi công nghệ về Machine Learning – còn gọi là máy học – cung cấp cho máy tính khả năng học hỏi mà không cần được lập trình một cách rõ ràng. Giờ đây, những máy tính lớn có thể xử lý được để máy có thể học, bổ sung vào trí tuệ của con người, thay đổi một phần trí tuệ con người và giúp con người ra những quyết định nhanh nhờ xử lý thông tin. Machine Learning là cốt lõi của trí tuệ nhân tạo. Trí tuệ nhân tạo trước đây chỉ tìm cách mô phỏng con người, gọi là trí tuệ nhân tạo mạnh (Strong AI), nhưng gần đây khi Internet vạn vật tạo nên một nguồn dữ liệu rất lớn, các công cụ tính toán cũng như các phòng máy tính có thể xử lý dữ liệu rất lớn và tạo nên một cái máy có thể học được. Vì thế, có những những máy tính đã đánh bại danh thủ cờ vua thế giới. Gần đây, công nghệ Blockchain lại tạo nên một đột phá mới trên không gian mạng, từ không gian mạng chuyển sang không gian vật lý để cuộc sống của con người tốt hơn. Tất cả tạo nên cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 – cuộc cách mạng vĩ đại của nhân loại mà nội dung cốt lõi chính là chuyển đổi số. Ví dụ, chúng ta nói Chính phủ điện tử ứng dụng công nghệ thông tin để cung cấp các dịch vụ công qua mạng cho người dân – những cái lâu nay phiên bản bằng giấy chuyển sang phiên bản online. Nhưng Chính phủ số còn làm giảm quy trình cung cấp dịch vụ công cho người dân, đỡ phải khai báo nhiều.

Thời gian gần đây, những khái niệm như Cách mạng 4.0, Kinh tế số được nói đến rất nhiều ở Việt Nam, nhưng đó dường như mới dừng lại ở những lời hô hào chung chung chứ nội hàm của nó ít người nắm rõ, do đó mà vẫn mơ hồ, đứng ngoài cuộc. Ông đánh giá thế nào về cơ hội thực sự của Việt Nam trong cuộc Cách mạng 4.0 và cuộc chuyển đổi số đang diễn ra với tốc độ chóng mặt?

Để đạt mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số chiếm 20% GDP, 2030 chiếm 30%, và năm 2045 Việt Nam sẽ là một nước phát triển có thu nhập cao là một thách thức lớn, nếu phát triển bình thường thì khó đạt mà cần sự bứt phá. Bứt phá bằng gì? Chúng ta phải bứt phá bằng kinh tế số, chuyển đổi số. Chúng ta chuyển đổi số lúc này là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định chủ trương xây dựng nền kinh tế sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số. Bên cạnh đó, Việt Nam đã có mạng Internet và viễn thông phát triển mạnh, smartphone đã phổ biến nên khả năng sử dụng Internet, khả năng sử dụng các công nghệ số rất thuận lợi. Thế hệ trẻ Việt Nam thông minh, sáng tạo, nếu được kích hoạt tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.

Vậy những trụ cột nào sẽ tạo nên cuộc bứt phá này? Tôi cho rằng muốn chuyển đổi số thành công thì phải dựa trên ba trụ cột là thể chế, con người và công nghệ.  Nếu thể chế không thay đổi, vẫn trì trệ thì khó bứt phá. Có hàng loạt vấn đề về thể chế cần thay đổi sớm, xóa bỏ những rào cản. Mặt khác, chuyển đổi số ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, là công việc của toàn dân, cho nên từ người sử dụng, nhà cung cấp dịch vụ, đến cơ quan công quyền và các tổ chức, doanh nghiệp phải được đào tạo. Công nghệ cũng là một trụ cột, nhưng muốn chuyển đổi số thành công thì công nghệ lại do thể chế và con người quyết định. Ví dụ: Giờ đây nếu lắp một chiếc máy tính nối mạng phải ứng dụng trên nền tảng chung của cả xã hội mới có thể chuyển đổi số. Vì thế, vấn đề không phụ thuộc doanh nghiệp công nghệ nữa mà phụ thuộc vào người đứng đầu chính quyền địa phương, phụ thuộc vào các bộ ngành, các doanh nghiệp và Chính phủ có thay đổi hay không.

Tôi hy vọng sau Đại hội Đảng lần thứ XIII sẽ có một sự khởi đầu mới đủ sức bứt phá. Nếu 5 năm tới, cơ chế quản trị quốc gia, cơ chế quản trị doanh nghiệp, cơ chế quản trị công quyền mà không đổi mới mạnh thì mục tiêu 2030 không đạt được. Chúng ta có thể vuột mất cơ hội và biến cơ hội thành thách thức. Nhiều chuyên gia hy vọng, nhiệm kỳ mới sẽ tạo ra một sự chuyển đổi số đủ mạnh để tạo đà cho giai đoạn 2030-2045. Covid-19 là tai họa của nhân loại nhưng đồng thời nó như một sự “cài đặt” lại cho nhân loại về thái độ với tự nhiên, và cả những mô hình quản trị quốc gia. Internet có sứ mạng mang công cuộc chuyển đổi số để tạo sự thay đổi.

Giữa bề bộn rất nhiều việc cần làm để chuyển đổi số, cần chọn một khâu đột phá. Theo ông khâu đột phá của đột phá đó là gì?

Khâu đột phá đó là phải có một cơ chế về thu thập dữ liệu, xử lý dữ liệu, phân cấp dữ liệu, không cát cứ về dữ liệu, bảo vệ an toàn dữ liệu. Nếu dầu mỏ là nguyên liệu của nền kinh tế thế kỷ trước thì dữ liệu là nguyên liệu chính của nền kinh tế số. Dữ liệu đó được tạo ra, được truyền đi, được lưu trữ, được xử lý, được sử dụng chung, được bảo vệ thì nó mới có hiệu quả. Nhà nước đã bỏ ngân sách ra để làm cơ sở dữ liệu dân cư, cơ sở dữ liệu đất đai, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp… đó phải xem như tài sản của toàn dân, hãy để người dân và doanh nghiệp được sử dụng. Dữ liệu ấy bây giờ đang đóng kín, phải sớm công khai ra và cần có luật về vấn đề dữ liệu. Không có những đột phá về dữ liệu thì khó có nguồn tài nguyên như một nguồn năng lượng để cho các doanh nghiệp và xã hội sử dụng. Đó chính là khâu đột phá của đột phá, còn về vấn đề công nghệ thì tôi tin các doanh nghiệp và Bộ Thông tin và Truyền thông đủ sức làm.

Thưa ông, điểm nghẽn lớn nhất trên hành trình chuyển đổi số, thực hiện cuộc Cách mạng 4.0 hiện nay là?

Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là ngại thay đổi trong khi phải thay đổi. Điều này có hai lý do. Thứ nhấtlà không nhận thức được việc không thay đổi nghĩa là chết. Một doanh nghiệp, hay một quốc gia đều như vậy. Không nhận thức được cái tất yếu đó thì không thể tiến lên, mà đứng lại nghĩa là tụt hậu rồi. Thứ hai là thay đổi đụng tới lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm… Vì thế muốn thay đổi phải dũng cảm, phải chịu đau, phải dám làm, dám chịu. Tôi cho rằng điều quan trọng nhất là một sự dũng cảm thay đổi ở tất cả mọi tầng lớp, từ lãnh đạo cho đến người dân, doanh nghiệp với tâm thế nếu không làm mình sẽ thua, sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nếu 5 năm tới đây chúng ta cứ rề rà, nếu các nhà quản trị, các nhà lãnh đạo không dũng cảm, không quyết liệt, đánh mất cơ hội thì có lỗi với đất nước. Thay đổi có bắt kịp với thời cuộc hay không thì cần đổi mới, sáng tạo. Thời buổi này sáng tạo giá trị hơn kinh nghiệm, tốc độ quan trọng hơn khối lượng, cá nhanh nuốt cá chậm chứ không phải cá lớn nuốt cá bé. Kinh nghiệm chỉ còn có ý nghĩa về mặt tư duy, còn nhiều cái cụ thể sẽ hoàn toàn khác. Đấy là một sự chuyển dịch vĩ đại của nhân loại vào không gian mạng. Chuyển đổi số là một sự chuyển dịch vĩ đại để thay đổi môi trường quản trị quốc gia, mô hình quản trị doanh nghiệp, mô hình kinh doanh và thay đổi cuộc sống của con người. 20 năm trước Internet vào Việt Nam đã tạo ra sự thay đổi lớn lao, nhưng 20 năm tới, với Internet kết nối vạn vật, với chuyển đổi số, với trí tuệ nhân tạo sẽ còn tạo ra sự thay đổi vĩ đại hơn nữa. Nếu chúng ta không sẵn sàng, các nhà quản trị không sẵn sàng, nền giáo dục Việt Nam không sẵn sàng cho sự thay đổi đó thì dễ mất cơ hội.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Phùng Nguyên (Thực hiện)