Cụ Tú Lê – ông đồ Nghệ

Danh xưng “ông đồ Nghệ” trước đây để chỉ các thầy đồ (thầy dạy chữ Nho) xuất thân từ vùng đất Nghệ Tĩnh. Nhân cách, tư chất, cũng như sự hiểu biết sâu rộng của “ông đồ Nghệ” được nhân dân rất tín nhiệm. Các nhà giáo xứ Nghệ về sau cùng nối tiếp phẩm chất của các thời đại trước, và “ông đồ Nghệ” đã trở thành một thương hiệu trong việc dạy chữ, dạy người.

Người viết bài này vinh hạnh là hậu duệ của cụ Lê Liễu và lưu được tập “Thơ Lê Liễu”. Đọc đi đọc lại tập thơ, thấy nổi lên những phẩm chất, nhân cách của một nhà nho, một “ông đồ Nghệ”, xin được chia sẻ cùng độc giả.

Tiểu sử và thơ văn của cụ Lê Liễu: (1)

Cụ Lê Liễu (người dân trong vùng thường kính trọng gọi là cụ Tú Lê) sinh năm Mậu Ngọ (1857) trong một gia đình nông dân ở làng Diệu Ốc, tổng Quan Hóa, huyện Yên Thành. Nay là xóm Xuân Viên, xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Thuở nhỏ, Lê Liễu được cha mẹ cho đi học chữ Hán. Nhà nghèo nhưng Lê Liễu rất ham học và học giỏi, sớm nổi tiếng văn hay chữ tốt trong vùng. Năm 18 tuổi, Lê Liễu đã thi vào tam trường. Nhưng vì có chí hướng khác nên Lê Liễu đã bỏ cả văn chương cử nghiệp, cùng một số bạn bầu lên đường ra Bắc tham gia khởi nghĩa Yên Thế cùng nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Sau này, trong bài “Tính kỹ ngâm” cụ viết “Yên Thế thất niên thành nãi thành” và cụ thường kể cho con cháu nghe những kỷ niệm về những năm tháng ở Yên Thế.

Sau khi ở Bắc về, cụ Lê Liễu lại lều chõng đi thi nhưng công danh lận đận, mãi đến năm Giáp Ngọ (1894) – 37 tuổi đầu ông mới đậu Tú tài. Từ đó ông về quê dạy học và làm thơ. Đã có lần đốc học Nghệ An mời ông ra dạy chữ Hán ở một trường công nhưng ông từ chối, chỉ mở lớp dạy học tại nhà hoặc trong nhà dân. Cảm phục trước tài năng và đức độ của ông, học trò các làng trong 5 tổng ở Yên Thành kéo đến học khá đông, một số học sinh của Lê Liễu sau này trở thành những trí thức yêu nước, là hạt nhân của tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và Tân Việt cách mạng đảng ở Yên Thành, trong đó có con trai ông là Lê Tâm Ấn.

Đóng góp lớn nhất của Lê Liễu đối với lịch sử đấu tranh và xây dựng của quê hương Yên Thành là sự nghiệp văn thơ. Ông để lại một bản trường ca nổi tiếng mà người đương thời gọi là anh hùng ca: Nam quốc tỉnh mê ca – bài ca thức tỉnh nước Nam và hàng trăm bài thơ, phú, câu đối. Tác phẩm “Bài ca thức tỉnh nước Nam” kể lại một cách hào hùng những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam từ các vua Hùng lập nước đến những năm tháng chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX và kêu gọi nhân dân đứng dậy đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước. Ngoài ra Lê Liễu còn để lại hàng trăm bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương, phản ảnh mọi cung bậc tình cảm trước thời thế, trong các mối quan hệ gia đình, bạn bầu. Hầu hết thơ văn của Lê Liễu làm bằng chữ Hán, theo lối biền ngẫu. Nhưng trong bản trường ca “Bài ca thức tỉnh nước Nam” lại có ý đưa thơ chữ Hán về với hình thức thơ Việt truyền thống là thể thơ lục bát; cũng như phần thơ trữ tình, đều toát lên bản sắc, cách nhìn của một tâm hồn nhạy cảm, vừa đằm thắm thiết tha vừa dí dỏm thông minh.

Cuộc đời và thơ văn của Lê Liễu là hình ảnh khá tiêu biểu của một nhà nho xứ Nghệ, ham học, hiếu học, văn hay chữ tốt, cương trực, thanh bạch, gắn  bó với quê hương làng nước, gắn bó với nhân dân, có lòng yêu nước nồng nàn, sống có tiết tháo khi cần thì bỏ cả văn chương cử nghiệp để xả thân vì nghĩa lớn. Tên tuổi và sự nghiệp của Lê Liễu sống mãi với nhân dân, với lịch sử đấu tranh và xây dựng của quê hương. Lê Liễu mất tại quê nhà ngày 11 tháng 11 năm Canh Ngọ (1930), hưởng thọ 73 tuổi.

Nhà thờ cụ Tú Lê ở xóm Hồng Phong, xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An                                                          *

Nhân cách “ông đồ Nghệ” Lê Liễu qua một số bài thơ của cụ để lại:

Thứ nhất: coi trọng sự học, ham học, chăm đọc sách thánh hiền, có chí tiến thủ

Nhìn chung, các ông đồ Nghệ thường sinh ra ở các vùng quê, dòng họ, gia đình vốn có truyền thống hiếu học; coi trọng sự học và khoa bảng; quyết chí học tập để làm quan, để làm thầy, để làm người có ích cho xã hội, để “danh gia,  vọng tộc”. Chí hướng đó được các ông đồ hướng cho môn sinh cũng như con cháu của mình. Trong bài thơ “Bài ca dạy con”, có khổ thơ cụ Lê Liễu viết:

“Cựu nghiệp thi thư tu quảng độc
Tân biên cách trí yến tinh thục
Nhữ vô điền thước vô phi hoàng
Kiểm thân tu hạnh miễn lưu tục.

Vô thị thông minh vô thị tài
Thông minh bất học hà vi tai
Hữu tài bất học chung ngu suẩn
Dự bất tài đồng do nô đài”…
Dịch nghĩa:
…Thi thư nghiệp cũ phải đọc rộng
Sách mới cách trí phải tinh thông
Con chớ như chim thước, như châu chấu.
Sửa mình sửa nết đừng trôi theo thói tục.

Chớ cậy thông minh, chớ cậy tài
Thông minh mà không học thì cũng chẳng làm được gì
Có tài mà không học rồi cũng thành ngu đần.
Người bất tài cũng giống như con ngựa tồi…”

Thứ hai: lòng yêu nước, thương dân, không chấp nhận ngoại bang xâm lược, có ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm cứu dân cứu nước

Cụ Lê Liễu sinh năm 1857. Năm sau (1858) thì Pháp đánh Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Như vậy cuộc đời của cụ Lê Liễu nằm trọn trong giai đoạn thực dân Pháp đánh chiếm, xâm lược nước ta. Đứng trước cảnh nước mất, dân lầm than, cụ Lê Liễu đã bỏ cả văn chương cử nghiệp, tập hợp bạn bè cùng ra Bắc tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Thế cùng nghĩa quân Hoàng Hoa Thám.

Bài “Nam quốc tỉnh mê ca” (Bài ca thức tỉnh nước Nam) dài 247 câu, chia làm 5 phần, kể lại một cách hào hùng những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam từ các vua Hùng lập nước đến những năm tháng chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX và kêu gọi nhân dân đứng dậy đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước. Bài ca dài, xin được trích đăng một vài đoạn nói lên cảnh thực dân Pháp chèn ép bóc lột, nỗi thống khổ của nhân dân và kêu gọi nhân dân đoàn kết đánh đuổi giặc Pháp:

“Thành Thái Ất Vị chi niên
Tức tương quân phí ngân nguyên trách bồi
Kinh hoàng quan pháp như lôi
Thôn thôn xã xã cổ thôi hỏa truyền
Trách khai dân bộ đinh điền
Bội gia thuế lệ nạp tiền đãi tô
Niên niên tuế tuế tăng thu
Gia tưng vật liệu trà phù bách đoan
Đầm hà đội? Cẩm hà quan?
Mặt ma tà quỷ đoàn đoàn hại nhân
Hoàn thành kiều ngụ di dân
Thuế môn thuế hộ thuế thân thuế hàng
Thuế kỹ quán thuế ca phường
Thuế trư thuế cẩu thuế dương thuế đồ
Thủ chi vô dụy tri thù…”
“…Bất cộng đái thiên chi thù
Nguyễn đồng Câu Tiễn chiểu Ngô tráng hoài
Binh gia binh, tài gia tài
Hợp nguyên thành hải, hợp tài thành lâm
Nguyễn Ngô ức vạn nhất tâm
Tập, Binh, Thông, Ký, Sen đầm diệc nhiên
Giáo dân sinh trưởng Nam thiên
Thỉnh khan Tây chính sổ niên như hà
Nguyện đồng huynh đệ nhứt gia
Nguyện đồng bảo thủ sơn hà như sơ…”.

Dịch thơ:
…Thành Thái năm ấy Ất Mùi
Tây nêu quân khí bạc thoi bắt bồi
Sợ oai như sợ sét trời
Thôn thôn xã xã trống thôi lửa truyền
Bắt khai sổ bộ đinh điền
Bội gia thuế lệ nộp tiền thay tô
Mỗi năm lại một tăng thu
Thu thêm vật liệu chè trầu thiếu chi.
Sen đầm quan cẩm quan gì? (2)
Mặt ma tà quỷ đều đi hại người
Quanh thành cư trú kìa ai
Thuế thân thuế hộ còn moi thuế hàng
Thuế kỹ quán, thuế ca phường
Thuế dê, chó, lợn, ai đương mổ bò
Vét bòn không sót một xu…
Cụ kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, các dòng tộc, các tôn giáo đoàn kết đánh Tây, giữ nguyên sơn hà:
…Trời chung không đội với thù
Làm như Câu Tiễn diệt Ngô mới hùng (3)
Cùng người cùng của đều cùng
Hợp cây thành núi, hợp dòng thành sông
Xin ta ức vạn một lòng
Sen đầm, lính tập, ký, thông đều là (4)
Giáo dân cũng ở nước ta
Mấy năm Tây trị thử mà xem qua
Anh em xin kết một nhà
Giữ nguyên cảnh cũ sơn hà Việt Nam…

Thứ ba: Coi thường danh lợi, không chịu phiền lụy, sống đạm bạc thanh cao

Trong bài thơ “Giáp đầu xuân thư thục tiếp kiến vân đội các lý trình tự khất vi y xã công trường giáo sư. Nhân tự vịnh dĩ kiến chí”
Cụ Lê Liễu viết:
“Giã tính cuồng sơ bất nại phiền
Nhứt hào danh lợi phó đông xuyên
Tiêu ma trần lự thi hòa tửu
Nhàn dưỡng thiên chân thực dĩ miên
Tâm dĩ vô ngư thôn nghiên Mặc
Niêm thường hữu hạc tị trà yên
Nô nhan lệ tất phi ngô sự
Lệ phạn lê canh dã tự hiền”

Dịch nghĩa:
Tính quê sơ cuồng không quen chịu phiền lụy
Chút danh lợi coi nhẹ như lông, mặc cho nước tuôn xuôi
Tiêu ma nỗi lo đời đã có thơ và rượu
Nhàn dưỡng thiên chân thì có ăn và ngủ
Lòng đã không vướng víu đến danh lợi
Chí luôn hướng về nơi hạc lánh mây bay
Cúi luồn không phải là việc của ta
Cơm bữa, canh rau cũng đủ tự dưỡng mình.

Dịch thơ:
Tính quê lậu chịu phiền không được
Chút lợi danh mặc nước trôi xuôi
Rượu thơ quên hết sự đời
Chỉ ăn với ngủ mà nuôi thân này
Cá đớp mực nơi đây không cảnh (5)
Lòng mơ nơi hạc lánh khói trà(6)
Cúi luồn nào phải việc ta
Canh lê cơm đỏ thôi đà đủ hay.

Thứ tư: yêu quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên…

Bài thơ “Đăng Kê Quan sơn ngẫu vịnh”, cụ Lê Liễu viết:

“Nhàn lai xuyên cược bộ đăng đông
Trực thượng Kê Quan đệ nhứt phong
Vạn lĩnh hồi hoàn khai thúy mạc
Thiên tầm đột ngột lăng tình không
Bồng lai cung khuyết chiêm y cận
Hải kiểu lâu thuyền tiếp tế thông
Cử thủ đạn tri thiên tại thượng
Thử thân như tại ngũ vân trung”.

Dịch nghĩa:
LÊN NÚI MÀO GÀ NGẪU NHIÊN LÀM THƠ
Nhàn rỗi xỏ dày trèo lên núi phía đông
Lên thẳng đỉnh cao nhất trong dãy Mào Gà
Muôn ngọn bao vòng như giăng màn biếc
Ngàn thước cao ngút chọc trời xanh
Cung điện chốn bồng lai thấy gần ngay trước mặt
Lâu thuyền trên biển nối nhau ra tít khơi xa
Ngửa đầu chỉ thấy có trời ở trên
Thân này như ở trong mây ngũ sắc

Dịch thơ:
Tra dày nhẹ bước tới non đông
Lên núi Kê Quan đỉnh ngút cùng
Vạn động quây quần giăng màn biếc
Ngàn tầm nghi ngút chọc trời trong
Làng tiên cung khuyết xem gần gũi
Cảnh biển lâu thuyền thấy suốt thông
Ngửa thấy trên đầu trời rõ lắm
Mây quanh ta tựa ở trong vòng.

Hay như trong bài thơ “Đăng Bồ sơn”, cụ Lê Liễu đã viết:
ĐĂNG BỒ SƠN
“Văn đạo Bồ sơn dật hứng tâm
Cấp xuyên mang cược khứ đăng lâm
Đông tây thủy thủy la thanh đái
Nam bắc phong phong ủng thúy khầm
Mịch thắng nhãn khan Anh Diễn giới
Cảm hoài nhĩ xúc mục tiều ngâm
Lăng cao tuyệt đỉnh Long vương miếu
Nhứt thốc lâu đài ngật cổ kim”.

Dịch nghĩa:
LÊN NÚI BỒ
Nghe nói cảnh Bồ sơn gợi hứng thú cao xa
Vội xỏ dày mặc áo trèo lên núi
Phía đông phía tây sông sông suối suối như khăn lụa biếc quấn quanh
Phía nam phía bắc núi núi non non như áo xiêm xanh bao bọc.
Tìm cảnh đẹp: mắt nhìn về Anh Sơn, Diễn Châu
Lắng nỗi lòng: tai nghe câu ca của kẻ chăn trâu người hái củi
Miếu Long vương ở chỗ cao ngút
Một dãy lâu đài trải bao kim cổ.

Dịch thơ:
Nghe cảnh Bồ sơn thú lắm thay
Vội tra dày leo núi lên đây
Sông như khăn biếc vòng vòng quấn
Núi tựa xiêm xanh lớp lớp dày
Mắt phóng cảnh xa Anh, Diễn rộng
Tai nghe tiếng hát mục tiều hay
Miếu Long vương ở trên cao ngút
Một dãy lâu đài trước đến nay.

Chiếc nghiên mực hình con rùa nay được đặt làm đế lô hương tại nhà thờ cụ Tú Lê (trước đây trước mỗi buổi học sẽ có một môn sinh đi sớm để mài mực phục vụ cho buổi học)

Thứ năm: tâm huyết với học trò, luôn tâm niệm và sáng tạo để đào tạo môn sinh thành người có chí lớn, giúp ích cho dân cho nước

Đọc bài thơ “Hoài lộ sơn ngẫu vịnh” ta thấy cụ đồ Lê Liễu đã truyền dạy tri thức cho học sinh bằng kinh nghiệm và sự sáng tạo cá nhân, đào tạo học sinh thành những con người thực tiễn, có ích cho dân, cho nước chứ không phải là thành những “con mọt sách”. Ở bài thơ này ta cũng thấy phương pháp dạy học qua thực tế, học đi đôi với hành, học qua trải nghiệm đã được “ông đồ Nghệ” sử dụng:

 HOÀI LỘ SƠN NGẪU VỊNH

Nhứt tự nhất biều sổ quyển thư
Huề đồng kiết thảo bạng nham cư
Kính khai mộc thạch xung sương lý
Lũng tịch vi lao đái nguyệt thừ
Như lão nông hề như lão phố
Khả vi tiều dã khả vi ngư
Tứ xuân lịch bảo yên hà thú
Tiểu ẩn do di xử sĩ cư.

Dịch nghĩa:
NHỚ LÈN CÒ NGẪU NHIÊN LÀM THƠ
Một giỏ cơm, một bầu nước cùng mấy quyển sách
Dắt trò nhỏ lên kết lá làm nhà ở cạnh núi đá
Giầm sương, rẽ cây, gạt đá mở lối đi
Dãi trăng, chặt lau phạt lách vỡ nương rẫy
Giống ông lão làm ruộng, cũng giống ông lão làm vườn
Có thể làm tiều phu, cũng có thể làm ông chài
Trải bốn xuân đầy thú yên hà
“Tiểu ẩn” vẫn còn đó, chỗ ở của người “xử sĩ”.
Dịch thơ:

Sách mấy quyển nước bầu cơm giỏ
Thầy với trò nhà cỏ đơn sơ
Đường đi xê đá phát bờ
Phá cồn lau sậy cày bừa dưới trăng
Rằng lão nông mà rằng lão phố
Vừa ông tiều vừa rõ ông ngư
Yên hà vui bốn xuân dư
Nhà người ở ẩn dấu xưa hãy còn.

Thứ sáu: coi trọng thực tài, trách nhiệm với đời, với dân, với nước

Nếu như trước đó cụ Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã xót xa, đau đớn vì hiện thực xã hội nhố nhăng, hỗn tạp tạo nên nhiều tiến sỹ giả bất tài, vô dụng, chỉ làm sâu mọt đục khoét nhân dân, làm những điều vô bổ, hại dân, hại nước qua bài “Vịnh tiến sĩ giấy” thì cụ Lê Liễu cũng mang nỗi lòng ấy. Trong bài thơ “Nho sĩ ngâm” cụ viết:

“Nho sĩ chi danh quý chân quý
Chi khủng danh hữu nhi thực vô
Cổ chi vi nho thông tam tài
Cổ chi vi sĩ khả bách vi
Kim chi nho sĩ dư cổ lễ…”
…“Tâm thân tích phận vô ty hào
Cửu bác hoang dâm mạc úy kị
Bình nhật sở tồn ký phi di
Sa nhật sở dụng hà biểu nghi
Sinh vi nho sĩ hồ như thử
Hao mục thời xu không tự bi”

Dịch nghĩa:
Cái tên “nho sĩ” quý thì quý thực
Chỉ e là “hữu danh” mà “vô thực”
Nho sĩ xưa thông hiểu “tam tài”
Nho sĩ xưa có thể làm trăm nghề
Nho sĩ ngày nay trái ngược lại…
…Chứ chẳng ngó ngàng gì tới tâm tính
Cờ bạc, rượu chè, hoang dâm không kiêng kỵ
Lối sống thường ngày đã phi luân lý
Rồi ra được dùng có gì treo gương tốt cho người
Sống làm người nho sĩ sao lại đến thế?
Mỏi mắt trông người đời luống buồn bực trong lòng.

Thứ bảy: nhà nho nhưng không thủ cựu

Có câu chuyện về “Cây đèn treo ngược”. Chuyện kể rằng: “… Kết thúc sứ trình, ba vị (7) quay về cố hương, háo hức thuật lại chuyện đèn thắp ngược, ngọn lửa chiếu xuống đất. Lập tức chư vị đại thần trong triều Huế cười phá lên và quả quyết rằng sứ bộ bị lũ “bạch quỹ” Tây dương mê hoặc… Cũng may Tự Đức (8) chưa hạ lệnh tống giam ba vị đại thần của mình vì tội khi quân (dối vua)…” (Nguyễn Khắc Phục, Những bước đi tỏa sáng (tập bút ký lịch sử), tr 14). Trong khi đó Lê Liễu tuy căm ghét giặc Pháp đô hộ nhưng vẫn ghi nhận các kỷ thuật tiên tiến của Âu châu. Thể hiện qua bài thơ:

 QUAN ĐIỆN XA NGẪU VỊNH

Nhãn quan điều thượng điệu xa hành
Thi giác Âu châu kỹ thuật tinh
Tài bộc nhĩ gian nhi chấn động
Hốt ngưng mâu xứ nhãn lưu tinh
Phi chiên vị tiệp tiền du tử
Lưu mã do trì tích Khổng Minh
Thiên vị ngã nam khai trí xảo
Tiên đề ngoại quốc duyến tiền trình.

Dịch nghĩa:
Mắt nhìn xe điện chạy trên đường dài
Mới biết kỹ thuật của Âu châu tinh xảo
Thoắt nghe ầm ầm bên tai tưởng là động đất
Vút qua trước mặt nhanh tựa sao băng
Diều gỗ của Công Du Tử xưa hóa ra chưa nhanh
Ngựa gỗ của Khổng Minh trước kia hãy còn chậm
Trời mở đường trí xảo cho người Nam chăng.
Thì cũng do người ngoại quốc mở ra manh mối.

Thứ tám: sống thanh đạm, thanh cao, dí dỏm, lạc quan

Thời tuổi trẻ với chí lớn, bỏ cả văn chương cử nghiệp cùng bạn bầu ra Bắc tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Thế cùng Hoàng Hoa Thám. Việc không thành, cụ Lê Liễu trở về tiếp tục đèn sách, thi cử, dạy học. Cuộc sống của ông đồ Nghệ thanh cao, gần dân, bạn với những người đánh cá, hái củi, làm ruộng… Cuộc sống thanh đạm, thanh cao đó được thể hiện qua thơ văn, có nhiều tính dí dỏm hài hước của người Nghệ:

 XUÂN NHẬT HỶ LÃO (bài số II)

Tuế nguyệt sa đà tống lão lai
Công danh phù thế bất ma hoài
Hào tình phân phó tam bôi tửu
Lạc ý tương quan cửu tuế hài
Lư tuyết tiều phu giai ngã hữu
Yên ba điếu tẩu thị ngô trai
Quý nhân bất nhược nhàn nhân quý
Nhứt tiểu thần tiên lão Tú tài.

Dịch nghĩa:
Ngày tháng lần lữa đưa cái già tới
Công danh trên cõi phù thế chẳng bợn đến lòng
Chí lớn gửi gắm vào ba chén rượu
Ý mi ngắm nhìn thằng con lên chín.
Tiều phu trên núi rừng đều là bạn ta,
Câu chài trên sông nước là nhà của ta
Kẻ cao sang không sang bằng người nhàn
Một tiểu thần tiên: lão Tú tài này.

Hoặc được thể hiện qua bài:
BẦN TIỆN NGẪU VỊNH:

Nhân giai phú quý thùy bần tiện
Bần tiện thiên tương ngọc ngã đa
Quang yên khúc chẩm miên thường ổn
Ảm lạc đan biều bệnh bất gia
Đạo thứ qua tường chung mạc cố
Tề nhân đáo hộ chuyển chi tha
Tương như hà sự tác văn trục
Bất ký vương tôn bích thượng ca”.

Dịch nghĩa:
Người đều giàu sang ai nghèo hèn?
Trời đem cái nghèo hèn ưu đãi ta.
Tự co tay gối ngủ, luôn luôn yên ổn
Vui cơm giỏ nước bầu, bệnh không vào người được.
Kẻ trộm đi qua nhà (ta), chẳng thèm đoái hoài tới
Ăn mày vào cửa, vội vàng đi sang nhà khác
Biết làm gì? Thôi, làm thơ vậy,
Bài ca trên vách chẳng cần gửi tới vương tôn.

Thứ chín: trọng đạo lý, tròn đạo hiếu với mẹ cha

Đối với giáo dục con người, từ xưa đến nay đều coi trọng đạo đức, đức là gốc, được đặt lên hàng đầu trong quan hệ đức – tài. Các cụ đồ nho xưa đã rất coi trọng đạo lý, nghĩa tình. Cụ Lê Liễu có nhiều bài thơ nói về nghĩa tình với bà con làng xóm, tình nghĩa vợ chồng, đạo hiếu với cha mẹ, như các bài: “Cảm hoài ngữ vịnh”; “Ức chính đường cảm tác”; “Ức kế đường cảm tác”; “Tự thân cảm tác”… Xin được dẫn chứng một bài:

 TỰ THÂN CẢM TÁC
Phụ hề hà khứ mậu hà chi?
Dục dưỡng mi tòng hồ bất bi
Phụ mệ dĩ nô bao Tử Lộ
Dược ngư không tự khấp Khương Thi
Thần hôn hạnh hữu Cửu truyền phụ
Thi lễ húc thành thập tuế nhi
Uất uất Giai thành chung cổ ngưỡng
Cao sơn thạch động tạc thành bi.

Dịch nghĩa:
NHỚ CHA MẸ CẢM TÁC
Cha ơi, cha đi đâu mẹ đi đâu
Muốn theo phụng dưỡng mà nào có được!
Đã không được đội gạo nuôi mẹ như Tử Lộ (9)
Càng đau lòng đức hiếu không động được đến cá nước như Khương Thi (10)
Nâng giấc sớm hôm nay có vợ nơi cửu tuyền
Nối dòng thi lễ xin nuôi dạy đứa con mười tuổi.
Phần mộ thiêng liêng, nơi ngưỡng vọng muôn đời,
Núi cao hang đá đều muốn tạc thành bia.
(Để ghi công ơn cha mẹ)


Cụ Lê Liễu viết nhiều sách bằng chữ Hán. Ngoài các sách văn thơ, cụ còn viết về nhiều lĩnh vực khác như sách thuốc Đông y, sách phong thủy địa lý… Tiếc rằng cụ chỉ có 1 người con trai là Lê Tâm Ấn (ông Lê Tâm Ấn có 2 người con gái, vợ của ông Lê Tâm Ấn là em ruột của vợ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu) tham gia tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí Hội, hoạt động ở Tương Dương, bị Pháp bắt giam ở Nhà lao Vinh, bị tra tấn dã man đến khi ra tù thì ốm chết. Từ đó gia đình ly tán và sách vở của cụ cũng bị thất lạc. (Được biết có một số nay được lưu trữ ở Thư viện tỉnh Nghệ An).

Ông cha ta ngày xưa vẫn thường nói: “văn là người”, “thơ là tiếng nói của cõi lòng”. Đọc cuốn Thơ Lê Liễu, là bậc hậu thế, tôi cảm nhận nhiều nổi bật về nhân cách của cụ Tú Lê, cũng là đặc trưng của “ông đồ Nghệ” nói chung, thực sự trân trọng!

Thơ văn của cụ Lê Liễu để lại nhiều nhưng viết bằng chữ Hán, nhóm biên soạn (1) chỉ dịch và in được một số bài. Các bài thơ sử dụng trong bài viết xin được đưa vào đầy đủ cả nguyên bản và phần dịch nghĩa (một số bài có cả dịch thơ) để người đọc có cảm nhận hết cái hay, cái đẹp của thơ Đường cũng như nội dung ý tứ trong đó. Để thấu hiểu được thơ bằng chữ Hán là rất khó, nên chắc chắn sự khảo cứu sẽ có nhiều thiếu sót. Nếu có điều chưa nên, chưa phải, cúi xin linh hồn cụ Lê Liễu lượng thứ, và mong được người đọc cảm thông!

Nguyễn Hoàng                

Chú thích:
(1): Theo nhóm biên soạn tập “Thơ Lê Liễu”, gồm các ông: Lê Quốc Ân, Hoàng Nghĩa Quán, Ngô Đức Tiến, Phan Văn Từ, Nguyễn Văn Hùng.
(2): Sen đầm là do chữ Pháp Răngđácmơ (Gendarme) mà ra, là loại lính đi tuần phòng bắt bớ.
Cẩm là do chữ Pháp Com mit xe rơ (Commissaire) mà ra, có nơi gọi là quan cò là tên quan coi lính đi tuần tra.
(3): Câu Tiễn là vua nước Việt, nói: “10 năm sinh ra người 10 năm học tập, rèn luyện. Sau 20 năm thì làm cho nước Ngô thành ra cái ao”. Về sau quả nhiên nước Việt diệt được nước Ngô.
(4): Lính sen đầm, lính tập, thư ký, thông phán.
(5)(6): có nơi đem nghiên mực ra suối rửa thì có con cá nhảy lên đớp hòn mực. Có nơi đốt lửa để pha trà thì hạc bay ra nơi xa để tránh khói. Đó là những nơi tiên ở.
(7): Sứ đoàn gồm Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản dẫn đầu.
(8): Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883. Như vậy khi Vua Tự Đức mất thì ông Tú Lê 26 tuổi.
(9)(10): hai người này trong “Nhị thập tứ hiếu”