“… Qua cổng làng chú tôi đi lính
Chiến tranh, bom đạn chẳng trở về
Hòn vọng phu qua sông lần nữa
Một chiều xao xác nắng triền đê.”
Đó là những vần thơ tôi viết để kính dâng lên hương hồn chú tôi – một liệt sĩ hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, người mà tôi chẳng bao giờ biết mặt, người đang hiện hữu trong gia đình tôi trên những tấm bằng Tổ quốc ghi công và tờ giấy báo tử đã hoen ố vì thời gian mà ông tôi, cha tôi rồi đến tôi xem như báu vật của gia đình.
Tuổi đôi mươi chú lên đường ra trận theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc như hàng triệu thanh nhiên lúc bấy giờ. Nhà có hai anh em trai, cha tôi vừa trở về từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và may mắn vẫn lành lặn. Chú đi công nhân nông trường rồi chuyển sang đi lính mới báo về cho cả nhà biết. Ông bà nội chỉ biết lặng im nhìn nhau, thắp lên ban thờ gia tiên để cầu mong cho con nơi chiến trường được chân cứng đá mềm, tránh được hòn đạn mũi tên.
Nghe cha kể lại, sau những ngày tháng huấn luyện cấp tốc, mặc dù rất muốn đi B để trực tiếp đánh Mỹ nhưng chú lại được về đơn vị phòng không bảo vệ ngay vùng trời của quê hương. Và cũng nhờ điều đó mà trong một lần về phép, chú tôi đã nên duyên cùng mự (thím) tôi – người con gái xinh đẹp ở làng bên. Tình yêu đến từ một câu hát ví giặm ghẹo đùa khi cô thôn nữ của phong trào “ba đảm đang” đang làm cỏ dưới ruộng thấy anh bộ đội mang ba lô về làng “ ơ… chơ đồng ta trước buổi anh đi/ Đất chưa cày ải, mạ thì chưa gieo/ Bây giờ ruộng đã kín bèo/ Lúa xanh một dải lượn theo núi đồi/ Mong anh giữ vững biển trời/ quê nhà đã có em rồi đừng lo…”. Một đám cưới giản dị của thời chiến là kết thúc viên mãn cho tình yêu sét đánh dẫu chưa kịp dò đến ngọn nguồn lạch sông. Kẹo bánh, trà thuốc và lời chúc phúc của nội ngoại; mự tôi mỉm cười hạnh phúc bên “anh chồng độc đáo”. Chưa kịp bén hơi nhau thì chú tôi được đơn vị gọi gấp. Đó là những ngày tháng đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc bằng những đợt rải thảm B.52. Ở hai đầu nỗi nhớ, chú vững chắc tay súng cùng đồng đội bảo vệ vùng trời quê hương; mự vẫn là người vợ đảm, dâu hiền làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Chỉ tiếc thời gian bên nhau quá ngắn ngủi không kịp cho chú mự tôi một đứa con.
Rồi một ngày đầu tháng 12/1970, gia đình tôi nhận được tin dữ, chú tôi hi sinh trong một trận đánh với máy bay Mỹ ra ném bom miền Bắc. Chú cùng 8 đồng đội đã vĩnh viễn để lại tuổi thanh xuân khi bảo vệ vùng trời quê hương. B.52 đánh sập cả căn hầm, đồng đội sau những loạt bom của giặc ngừng mới ra đến trận địa, bới từng nắm đất để tìm xác đồng đội. Thân thể cường tráng của những chàng trai đã không còn nguyên vẹn dưới sức ép của bom đạn Mỹ. Chín ngôi mộ được đắp lên thành một hàng ngang cạnh nhau thể như khi còn sống họ vẫn gắn bó với nhau trong cùng tiểu đội. Có người ở Thanh Hóa, người ở Quảng Bình… nhưng không một gia đình nào nỡ đưa hài cốt người thân mình về. Họ nằm đó bên nhau đã gần 50 năm cùng hàng nghìn ngôi mộ hữu danh và vô danh khác tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Chú tôi hi sinh khi mới ba mươi tuổi, đang là trung úy, Chính trị viên Đại đội, thuộc Tiểu đoàn 14 (hay còn được gọi là Tiểu đoàn Nguyễn Viết Xuân anh hùng) thuộc quân khu 4. Nghe cha tôi kể lại, ngày UBND xã làm lễ truy điệu cho chú tôi cùng những người khác trong xã hi sinh ở các chiến trường khác cùng đợt, sáng hôm ấy trước cổng nhà tôi có một đàn rắn xuất hiện. Cha tôi lấy gậy ra định đuổi đánh thì ông nội bảo, chắc là chú cùng đồng đội về thăm nhà. Và ông hướng ra đàn rắn bảo, “hôm nay xã làm lễ truy điệu, con có linh thiêng hiện về thì cùng cha ra tham dự”. Không hiểu sao, sau lời ông nói, đàn rắn đã bò đi đâu mất. Câu chuyện mang màu sắc liêu trai ấy không biết hư thực thế nào nhưng đến bây giờ tôi vẫn tin hình bóng chú đang hiển hiện đâu đây nơi ngôi nhà thân yêu của mình.
Trong giấy báo tử của đơn vị gửi về cho gia đình có đoạn: Đồng chí… mất đi, Tổ quốc và nhân dân mất đi mọt người con trung hiếu, đơn vị mất một người đồng chí, đồng đội chiến đấu, gia đình mất đi một người thân yêu. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị gửi lời thăm hỏi và chia buồn cùng với gia đình. Mong gia đình chuyển đau thương thành hành động cách mạng, khắc sâu căm thù giặc Mỹ và bè lũ tay sai, cùng toàn dân và toàn quân kiên quyết thực hiện lời Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch: “Quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Có phải chính nhờ những lời như thế mà hai năm sau ngày chú tôi hi sinh, mự để tang chồng xong; ông tôi (lúc này bà nội đã qua đời) đã giục mự đi lấy chồng hay nói đúng hơn là gả chồng cho con dâu – một anh thương binh cũng vừa trở về từ cuộc chiến. Chú mự chưa có con nên ông cũng đỡ áy náy với tuổi thanh xuân của con dâu hơn khi được ông cho phép, mự đồng ý đi bước nữa.
Tôi ra đời thì chú đã hi sinh, gia đình cũng chẳng có tấm hình nào của chú. Thờ phụng chú, tôi chỉ còn cách để tấm bằng Tổ quốc ghi công lên bàn thờ gia tiên để tưởng nhớ chú. Kỉ vật còn lại chỉ là chiếc bi đông, những huân huy chương, tờ giấy báo tử. Tiếc nhất là chiếc áo trấn thủ, hồi chị em tôi còn nhỏ, mẹ thường lót cho nằm, vị mặn khai nước đái của mấy chị em tôi thuở đói nghèo đã làm nó rách bươm.
Làng tôi, xã tôi, mảnh đất miền Trung quê tôi và cả trên đất nước này có bao gia đình như chúng tôi. Biết bao nghĩa trang liệt sĩ, bao nhiêu nhà tưởng niệm cũng làm sao ghi hết công lao của những người đã ngã xuống. Giá trị của hòa bình được đổi bằng bao xương máu của lớp lớp cha anh. Chú tôi và bao liệt sĩ khác ngã xuống khi chưa được nhìn thấy đất nước hòa bình, thống nhất. May mắn hơn với gia đình tôi là vẫn biết được mộ phần của chú. Còn bao gia đình trong xóm tôi chẳng biết mộ phần người thân ở đâu khi giấy báo tử chỉ ghi chung chung “Mặt trận phía Nam”…
Dẫu lấy chồng nhưng hằng năm các ngày lễ tết hay 30/4, 27/7… mự đều mang lễ vật đến thắp hương cho chú tôi dù gia cảnh chẳng khấm khá gì. Cách đây hai năm, nhờ chính sách mới của nhà nước, tôi đã giúp mự làm được chế độ cho vợ liệt sĩ tái giá và mự đã có tiền tuất hằng tháng. Đó cũng là một điều hợp tình, hợp lí và tôi nghĩ rằng chắc ở một cõi nào khác, chú tôi cũng an lòng.
Đinh Hạ














