Là một người trẻ đam mê du lịch, luôn khao khát những chuyến đi xa, đã biết bao lần tôi rong ruổi suốt chiều dài đất nước. Ấy vậy mà chỉ mới gần đây thôi tôi mới đặt chân đến cầu Hiền Lương, sông Bến Hải lần đầu tiên trong đời – Dòng sông, cây cầu mà tôi đã đọc, đã xem, đã nghe rất nhiều, và theo tôi suốt một thời thơ ấu qua những lời mẹ hát. Không biết đó có phải là bài duy nhất mẹ thuộc hay không mà cứ mỗi lần ru tôi, mẹ lại bắt đầu bằng “Bên ven bờ Hiền Lương, chiều nay ra đứng trông về…” Tôi đi qua cầu Hiền Lương vào một ngày trời không nhiều nắng, những cơn gió từ dòng Bến Hải thổi về thâm u như dội lên bao âm vang từ quá khứ mà trước lúc đến tôi không nghĩ nó lại mang cho mình nhiều xúc cảm đến vậy. Đứng giữa cây cầu sơn hai màu xanh – vàng, tôi cảm nhận rõ rệt ranh giới mà lịch sử đã từng khắc lên đất nước này suốt hơn hai mươi năm. Cây cầu nằm đó, bắc ngang dòng sông lặng im như nhân chứng cho những ngăn cách một thời. Hôm nay, tất cả đã trở thành ký ức nhưng dường như vẫn còn đâu đây bóng dáng của những năm tháng mà từng tấc gang trên cây cầu này đều mang dấu vết của nỗi đau chia cắt.

Tôi nhắm mắt lại, để mặc mình trôi theo dòng chảy của thời gian, nghe tiếng xôn xao của dòng người qua lại và thử hình dung về những năm tháng mà cây cầu này đã từng phải chứng kiến bao chia ly, bao nước mắt. Trong đầu tôi cứ thế hiện lên hình ảnh những người lính gác từ hai phía nhìn nhau. Chỉ một vạch sơn trắng rộng chừng 1cm giữa cầu thôi nhưng là sự ngăn cách ghê gớm của lòng người, của lý tưởng. Ở đó còn hiện lên những cái nhìn đau đáu của bao người dân gửi về người thân của mình ở phía bên kia, khao khát một lần được tay trong tay, được vui đoàn tụ… Tôi như nghe thấy tiếng loa phóng thanh vang lên từ hai phía, thấy “cuộc chiến màu sơn” trên chiếc cầu nhỏ bé năm nào,… Những cuộc đấu tranh không súng đạn nhưng căng thẳng và không kém phần quyết liệt ấy có lẽ đã khắc sâu vào tâm khảm những ai từng lớn lên ở hai bên bờ sông trong giai đoạn này…
Tôi không trải qua, không thể hiểu hết điều đó kinh khủng đến nhường nào nhưng khi đứng trên chiếc cầu không còn chia cắt, khi được tự do bước đi từ đầu đến cuối cầu tôi hiểu giá trị của hòa bình. Chỉ một bước chân thôi mà đã từng khó khăn đến thế, chỉ một cái bắt tay thôi mà đã từng chờ đợi ròng rã hơn hai mươi năm. Chiến tranh không chỉ hủy diệt ta bằng bom đạn mà còn bào mòn tâm hồn ta bởi những khắc khoải chờ mong, bởi những chia cắt trong tâm tưởng. Không biết, sau thời khắc lịch sử năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất ấy, trên cây cầu này bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi hòa xuống dòng sông, bao nhiêu vòng tay ôm, bao nhiêu bước chân đã hào hứng đi qua một ranh giới mong manh mà chứa đựng ngàn nỗi đau dồn nén suốt hàng chục năm trời?

Hôm nay, cây cầu đã được “tân trang”, mặt cầu đã được lát gỗ lim chắc chắn và nó trở thành một di tích lịch sử, một điểm tham quan đón bao nhiêu du khách trong và ngoài nước tìm về. Nhìn dòng sông hiền hòa và cây cầu bắc ngang đầy kiêu hãnh hôm nay, những người trẻ như tôi khó có thể hình dung đã có một thời nơi đây mọi thứ diễn ra khắc nghiệt đến thế. Cây cầu và dòng sông này giờ không còn là biểu tượng của chia cắt nữa, mà là biểu tượng của hòa hợp, của đoàn viên, của những điều không thể nào bị ngăn cách mãi mãi, của chiến thắng hiển nhiên thuộc về chính nghĩa.
Tôi tự hỏi, liệu những thế hệ trước có bao giờ tưởng tượng được sẽ có một ngày như hôm nay không? Một ngày mà những người trẻ như tôi có thể bước qua cây cầu này mà không cần phải lo sợ, đắn đo; một ngày mà bước chân từ năm châu về đây để ngắm nhìn dòng Bến Hải hiền hòa chứ không còn là một biên giới? Có lẽ họ đã mơ về điều đó rất nhiều lần để rồi chiến đấu hết mình vì nó, để rồi chẳng ngại hy sinh bản thân mình cho thế hệ sau không còn phải sống trong cảnh chia ly.
Thế đấy, cây cầu này không tự nhiên nối lại cũng như hòa bình cũng không tự nhiên mà có, lòng người không tự nhiên hàn gắn được những vết thương. Cần rất nhiều năm để người ta học cách tin nhau trở lại, để những ký ức đau thương được xoa dịu, để những bài học của lịch sử không bị lãng quên nhưng cũng không trở thành rào cản người ta bước về phía trước. Không có vết thương nào tự lành nếu ta không chủ động chữa trị, không có sự hòa hợp nào bền vững nếu ta không nỗ lực để thấu hiểu và bao dung. Hòa bình không chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là sự vắng mặt của súng đạn. Hòa bình là khi con người ta có thể tin tưởng nhau, có thể gạt bỏ quá khứ, khi người ta không còn phải nhắc đến “bên này” hay “bên kia”, mà chỉ còn nhìn về một hướng chung là cùng nhau xây dựng nước Việt Nam thống nhất hùng cường.

Tôi bước đi trên cây cầu, nhìn dòng Bến Hải hiền hòa chảy, nhìn những ngôi nhà bình yên không còn phải gánh chịu tiếng bom đạn réo gào, nhìn những dòng xe không ngớt lại qua trong nhịp phát triển sôi động mà lòng trào lên niềm xúc động khó tả. Vậy mà đã 50 năm non sông thống nhất. Đất nước, con người đã trải qua biết bao đổi thay. Từ đau thương chiến tranh chúng ta đã vươn lên đầy mạnh mẽ để bạn bè thế giới không chỉ nể phục một đất nước nhỏ bé đã đấu tranh kiên cường và chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất trong quá khứ mà còn là một Việt Nam hôm nay phát triển năng động với tiếng nói và vị thế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Cây cầu, dòng sông này đã dạy tôi bài học thật quý giá, nó nhắc nhớ thế hệ trẻ chúng tôi phải luôn biết nỗ lực vươn lên, đem hết tài năng và nhiệt huyết của mình để gìn giữ lấy hòa bình, để xây dựng Tổ quốc, để xứng đáng với máu xương cha anh đổ xuống.
Tôi hạnh phúc đứng giữa cầu, hít căng lồng ngực bầu không khí của tự do. Dưới chân cầu, dòng nước vẫn chảy, như nhịp chảy miên viễn của thời gian. Tôi nhìn về phía trước, về những chân trời xa hơn, nơi thế hệ chúng tôi sẽ tiếp tục viết tiếp câu chuyện của dân tộc mình – không phải bằng chiến tranh xung đột, mà bằng sự thấu hiểu; không phải bằng chia rẽ, mà bằng niềm tin và tình yêu dành cho mảnh đất này. Và tôi biết, mãi mãi, dân tộc này không thể bị cách chia, khối đoàn kết và tinh thần yêu nước nồng nàn của người Việt không gì có thể cản trở!
Trang Đoan













