Cách mạng tháng Tám – nguồn thi cảm vĩnh hằng

Tháng Tám năm 1945, từ kiếp sống nô lệ, nhân dân Việt Nam vùng dậy giành chính quyền, mở ra kỷ nguyên mới. Trong niềm hân hoan ấy, thơ ca Việt Nam cũng bước sang thời kỳ mới, tìm thấy nguồn cảm hứng của độc lập, tự do, của một đất nước hồi sinh.

Tố Hữu – lá cờ đầu của thơ ca cách mạng – đã chào đón Cách mạng tháng Tám ngay trên quê hương mình bằng một tâm thế đặc biệt: vừa là người chứng kiến trực tiếp, vừa là người trong cuộc, hòa nhịp trái tim với hàng vạn con người trên đường phố Huế. Huế tháng Tám là cảm xúc không thể kìm nén, bùng trào như lũ cuốn, gió xoáy: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời/ Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi…”. Ở đây, hình ảnh “ngực lép bốn nghìn năm” là một ẩn dụ lịch sử, nói về dân tộc trải qua ngàn năm nô lệ, nay bất chợt nhận luồng gió tự do, trở thành “mặt trời” ấm nóng, rực rỡ. Đó là niềm vui giải phóng, là niềm kiêu hãnh được đứng trong hàng ngũ của những người làm chủ vận mệnh đất nước.

Tinh thần cách mạng tháng Tám đã truyền cảm hứng cho thơ ca 80 năm trước. Ảnh: Tư liệu

Cách mạng tháng Tám mở ra cho Tố Hữu nguồn mạch sáng tác mới – nguồn mạch gắn bó máu thịt với vận mệnh dân tộc. Chỉ một năm sau ngày Độc lập, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm như Vui bất tuyệt, Giết giặc, Thưa các ông nghị, Trường tôi, Tình khoai sắn… 

Vui bất tuyệt, niềm vui được độc lập lan tỏa khắp không gian sống, từ phố phường tới nương đồng, từ những đoàn quân đến những em nhỏ đến trường. Trong Giết giặc, tiếng thơ trở thành tiếng súng, lời hiệu triệu, thôi thúc ý chí tiêu diệt kẻ thù để bảo vệ thành quả cách mạng. 

Điều đặc biệt ở Tố Hữu là thơ ông luôn gắn liền cảm xúc cá nhân với ý thức cộng đồng. Ông viết về những gì mắt thấy, tai nghe bằng trái tim chung của cả dân tộc. Cách mạng tháng Tám đã biến cảm xúc ấy thành chất men say nồng, để từng câu chữ của ông vừa tha thiết, vừa hừng hực khí thế. Ông dùng những từ ngữ trực diện, giàu khẩu khí quần chúng, khiến thơ mình vừa gần gũi, vừa bừng sáng như tiếng kèn xung trận.

Chính vì thế, thơ Tố Hữu viết về Cách mạng tháng Tám còn là lời thề trung thành với lý tưởng. Ông đã biến niềm vui chiến thắng thành sức mạnh tinh thần lan tỏa ra quần chúng, để “tim bỗng hóa mặt trời” là nhịp đập chung của một dân tộc vừa hồi sinh.

Với Xuân Diệu, tình yêu lớn nhất lúc này chính là Tổ quốc. Trường ca Ngọn Quốc kỳ, hoàn thành tháng 11/1945, dâng trọn cảm xúc cho hình tượng lá cờ đỏ sao vàng: “Có mấy bữa mà Việt Nam thắm cả/ Khắp Việt Nam cờ mọc với lòng dân”. Lá cờ ấy, trong thơ ông, “như mắt mở thức thâu canh/ Như lửa đốt hoài trên chót đỉnh”, nâng bước bao đoàn quân đi qua gian lao để đến ngày chiến thắng. Đầu năm 1946, Hội nghị non sông ra đời, sánh Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới với hội nghị Diên Hồng, khẳng định ý chí đoàn kết bảo vệ nền độc lập vừa giành được.

Sức sống Cách mạng tháng Tám còn lan tới những thi sĩ vốn gắn bó với thơ lãng mạn. Vũ Hoàng Chương, trong một bút pháp giàu hình ảnh, thấy Hà Nội biến thành “những nhánh sông đỏ bóng cờ/ Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại/ Năm cánh xòe trên năm cửa ô”. Nguyễn Đình Thi phơi phới trước trời đất giải phóng: “Reo reo hò cờ rực đỏ ánh cây/ Thoáng sao vàng nghiêng nghiêng vẫy…”. Thâm Tâm cảm nhận “Hồn thiêng khắp hết cõi bờ/ Sáng nay óng ánh trên tơ vải điều”. Nguyễn Xuân Sanh – từ chỗ bí hiểm, trừu tượng – nay chan chứa niềm vui dung dị: “Ta khát vô biên ngọn sóng vang/ Ta mừng hội gió lúc lên đàng”.

Ở miền Nam Trung Bộ, Trần Mai Ninh gửi tình yêu đất nước vào Tình sông núiNhớ máu. Tình ấy hòa giữa thiên nhiên và con người: “Trăng nghiêng trên sông Trà Khúc/ Mây lồng và nước reo… Bồng Sơn dìu dịu như bài thơ”. Nhưng cũng là lời tri ân những chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”: “Cả nghìn chiến sĩ… Mà nắm chắc tối cao vinh dự/ Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai”.

Đoàn Văn Cừ, tác giả những “bức tranh thơ” tiền chiến, nay bắt gặp nét mới trong hồn dân tộc hồi sinh: “Bao thôn nữ hôm qua còn yếm đỏ/ Miệng hoa cười tươi tựa ánh bình minh/ Hôm nay đều ra khỏi lũy tre xanh/ Với dòng máu quật sôi trong huyết quản”. 

Trong mạch cảm hứng chung ấy, hình tượng Bác Hồ trở thành trung tâm. Tố Hữu viết Hồ Chí Minh: “Hỡi ngọn đuốc thiêng/ Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc/ Trăm thế kỷ trong tên Người: Ái Quốc”. Tế Hanh thì khẳng định: “Hồ Chí Minh, chỉ là Người có thể/ Đưa con thuyền Tổ quốc đến vinh quang”. Bác hiện lên vừa gần gũi vừa vĩ đại, là điểm tựa niềm tin, là người chèo lái con thuyền dân tộc qua sóng gió.

Những tác phẩm ấy đã làm nên một vườn thơ cách mạng đa sắc, đa thanh, mang hơi thở của hồn thiêng sông núi, là tiếng đồng vọng của muôn triệu trái tim, và phần lớn được viết trong khuynh hướng sử thi kết hợp cảm hứng lãng mạn. Nguồn thơ này tuôn chảy từ máu thịt của những nhà thơ – chiến sĩ, vừa ghi lại trang sử đổi đời sau 80 năm nô lệ, vừa động viên, khích lệ đồng bào bước tiếp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy…”. Lời Bác là sự trân trọng ghi nhận và là lời kêu gọi dấn thân đối với những người làm văn hóa nghệ thuật. Thực tiễn cách mạng đã ươm mầm cho những sáng tác lớn, hình thành một thế hệ văn nghệ sĩ gắn bó máu thịt với Tổ quốc, để tác phẩm của họ trở thành mạch nguồn lan tỏa vào đời sống, thúc giục quân dân cả nước vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng nhau đoàn kết xây dựng cơ đồ.

80 năm đã trôi qua, đọc lại những vần thơ mùa thu 1945, ta vẫn thấy tươi tắn và hừng hực tính thời sự. Những vần thơ ấy không chỉ là ký ức mà còn là ngọn lửa truyền cảm hứng cho hôm nay. Khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, công chúng vẫn chờ đợi những thi phẩm tiếp tục khắc họa “dáng đứng Việt Nam” của thời đại Hồ Chí Minh tự tin hơn, mạnh mẽ hơn, vươn xa hơn trên con đường hội nhập và phát triển.

Cách mạng tháng Tám đã đem lại độc lập cho dân tộc và đồng thời khai mở một nguồn thi cảm vĩnh hằng. Khi “Sao vẫn sáng, máu xây nền vẫn đỏ!”, ngọn cờ ấy sẽ mãi tung bay trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.

Phạm Cường