Cách dịch thơ có một không hai

Tôi nhớ, bấy giờ là tháng 10 năm Bính Thìn 1976. Nhân một chiều đẹp trời, mấy anh em gồm nhà thơ Thạch Quỳ, Nguyễn Xuân Phầu; họa sỹ Đào Phương và Tùng Bách rủ nhau ra phố Quang Trung xem công trường xây dựng nhà lắp ghép 5 tầng do chuyên gia Cộng hòa Dân chủ Đức chỉ huy các công nhân của ta thực hiện.

Từ trái qua phải, các nhà thơ: Thạch Quỳ, Xuân Phầu, Tùng Bách.

Bốn anh em chúng tôi tìm đến khu xây dựng B5 xem chiếc cần cẩu cao to nhất thành Vinh đang nhấc bổng những miếng, mảng bê tông đúc sẵn từ mặt đất chao qua chao lại giữa không trung… Và rồi, những miếng mảng bê tông ấy được lắp ghép, gắn kết lại với nhau mà nên các tòa ngang dãy dọc, mà nên cả một khu phố nhà 5 tầng có tên là phố Quang Trung.

Mấy vị chuyên gia người Đức thấy chúng tôi theo dõi từng thao tác kỹ thuật thi công lắp ghép công trình một cách chăm chú và tỏ ra thú vị, họ cũng cảm thấy tự hào. Có người tiến về phía chúng tôi, nở nụ cười thân thiện, bắt tay ríu rít.

Anh chàng lái cần cẩu kiêm phiên dịch người Nghi Lộc không biết trình độ “Đức ngữ” đến đâu không chỉ thông ngôn kết nối bằng miệng mà còn chân huơ tay múa nữa.

Trên công trường. Minh họa: Thanh Châu.

Biết chúng tôi là những người làm thơ, viết văn của Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, mấy vị chuyên gia ngỏ ý muốn được nghe chúng tôi đọc thơ. Tưởng gì chứ thơ thì đầy. Tôi nói với anh chàng lái cẩu kiêm thông dịch rằng đây là Thạch Quỳ, nhà thơ nổi tiếng Nghệ Tĩnh. Chú cứ giới thiệu và mời bác ấy đọc thơ?

Nhà thơ Thạch Quỳ tỏ ra lúng túng, không biết nên chọn đọc bài nào thì Tùng Bách thì thào mách nước: Đại ca cứ “Gạch vụn thành Vinh” mà ngôn thôi.

Lần đầu tiên trong đời tôi thấy Thạch Quỳ đọc thơ say sưa bằng chất giọng đặc Nghệ, không chỉ lên bổng xuống trầm mà còn cả ngôn ngữ hình thể. Đọc tới đoạn “Gạch vụn ùa lên ôm lấy cột cờ” Thạch Quỳ cũng dang rộng hai tay vươn về phía trước, rồi ôm trọn vòng tay.

Mấy vị chuyên gia Đức gật đầu tỏ ra tâm đắc khi anh chàng thông dịch giải thích câu “Thà làm gạch vụn để chờ nhau”.

Xong phần đọc thơ của Thạch Quỳ, đến lượt Nguyễn Xuân Phầu. Tôi nói với Nguyễn Xuân Phầu: Anh chọn đọc bài nào ngăn ngắn, có tứ là được. Quý hồ hay, bất quý hồ dài. Nguyễn Xuân Phầu tủm tỉm rồi hắng giọng đọc bài thơ nội dung ca ngợi những người thợ khai thác than đá.

Bài thơ chưa đến 20 câu. Tôi nhớ 2 câu cuối bài là: “Một thước chiều cao/ Một thước chiều sâu”.

Không hiểu cậu thông dịch, chuyển ngôn thế nào mà mấy vị chuyên gia Đức tỏ vẻ không mặn mà lắm với bài thơ anh Phầu vừa đọc!

Vài ngày sau, tôi và Nguyễn Xuân Phầu có dịp gặp lại anh chàng lái cần cẩu kiêm thông dịch viên hôm nọ. Nguyễn Xuân Phầu hỏi: Bữa trước chú mi dịch bài thơ của bác cho mấy tay chuyên gia người Đức nghe, răng bác thấy họ tỏ ra không được vui rứa hè?

Anh chàng thông dịch thưa: Dạ, có lẽ họ không thích những gì liên quan đến chết chóc, huyệt mộ bác ạ!

Nguyễn Xuân Phầu bảo bài thơ mình ca ngợi những người khai thác than đá mà sao lại thành những người đào huyệt mộ?

Anh chàng thông dịch người Nghi Lộc thưa: Chẳng giấu gì bác, em là công nhân lái cần cẩu. Tiếng Đức em chỉ biết bỏm bẻm qua loa một số từ về kỹ thuật xây dựng thôi, thật tình văn, thơ em vốn không ham. Em cứ tưởng “Một thước chiều sâu/ Một thước chiều cao” là bác nói về những người phu đào huyệt ở Công ty mai táng. Thôi, chuyện đã rồi, có chi bác thông cảm!

Nguyễn Xuân Phầu vò đầu bứt tóc rồi thốt lên: Trời ạ, ung mi dịch dọt kiểu ni đến tru cũng bổ!

Hải My
(Theo nhà thơ Tùng Bách)