Rất nhiều lần tôi không nhịn nổi, cứ lặp lại câu hỏi: “Mẹ đâu rồi cha?” Tôi luôn biết, sau câu hỏi đó sẽ là một trận cau có, cộc cằn của kẻ mải miết nửa đời làm gà trống nuôi con. Nhưng sau đó, dù trong lòng khó chịu cỡ nào cha cũng không quát mắng tôi. Đó chắc là cái an ủi duy nhất dành cho một thằng không có mẹ mà hay thắc mắc về mẹ.
Chắc rằng cha sẽ lại không nói tiếng nào, quay mặt nhìn vô bức tường vôi trắng, làm như có hình bóng mẹ in trong đó. Rồi cha sẽ lại đưa bàn tay gân guốc, móng nứt nẻ, trỏ ngón tay vô dãy núi Bình Phong trước nhà. “Đó, mẹ mày ở bên kia vách núi”.
Lần nào thấy động tác chỉ tay mà không quay đầu đó của cha, tôi cũng chỉ chú ý vào bàn tay mà không hề nhìn theo hướng núi. Núi Bình Phong cũng y chang vậy từ ngày tôi đẻ ra tới giờ, có gì đâu mà nhìn! Còn bàn tay cha thì cứ vài ngày lại chai thêm một chút, có thêm cái sẹo mới, hoặc có khi còn rớt mất một cái móng không chừng. Bàn tay cha già đi, còn núi thì không. Núi Bình Phong căng tràn sức lực, cương mãnh, như một gã hộ pháp khổng lồ.
Hồi đó, ông Hai có kêu nó là Bình Phong Định Hải, Nhất Đại Hùng Sơn. Cái tên xưa không biết ông vua bà chúa nào đặt mà nghe như tên một ông tướng trên trời giáng xuống. Tôi thấy dãy núi đá trắng dài sọc chắn ngang chân trời đó đúng thiệt đang làm sứ mệnh trấn giữ. Vách núi dựng đứng như bức tường, xé toạc chân mây. Khắp mặt đá trắng là những phiến xẻ dọc, rêu bám một màu xanh héo hon, gầy mòn, không có lấy một khe nước. Nhiều chỗ, vách trên cao nhô lồi ra, phần chân bên dưới lõm vào. Mưa có đổ từ trên đỉnh núi xuống cũng không ướt vào cái hốc ấy nổi. Thế núi nhìn y hệt một bức tường cao chót vót, kéo dài thượt như con rồng đá đang nằm ngủ. Đá chen đá, nối liền tít tắp từ đông sang tây không chừa một kẽ hở nào, tưởng đến con kiến còn không chui qua được. Sườn bên đây là xóm của tôi, e dè nép vào thân tấm bình phong bằng đá đó. Chung quanh xóm toàn là đất cát hoang hoải, những thân cây cô đơn trơ trọi, những cỏ tranh xao xác khát nước. Hết rồi. Chỉ có vài hình ảnh côi cút như vậy lặp đi lặp lại, trải khắp một vùng mênh mông.
Bên kia vách núi có gì?
Người lớn trong xóm nói dãy núi Bình Phong là một đường biên giới. Bên kia là một đất nước khác, với nền văn hóa khác chúng ta. Người bên kia nhìn thì hao hao người xóm, nhưng họ rất giàu có, rất đông đúc. Bên kia có rừng xanh bạt ngàn, lại có một eo biển cát trắng muốt, nước trong thấy đáy. Rừng bên kia núi có nai, có sóc, có thỏ. Biển bên kia núi có cá, có mực, có tôm. Bên kia cái gì cũng có hết. Tôi ngó lại xóm mình. Dãy Bình Phong bao trùm một thứ bóng râm mịt mờ lên nóc những mái nhà lá ngây dại rạ rơm. Ánh sáng hào nhoáng từ bên kia vách không làm sao mà xuyên qua núi nổi. Tia sáng trong đáy mắt lũ con nít như tôi cũng theo đó mà nhạt nhòa, leo lét.
Con nít trong xóm đứa nào cũng có duy nhất một ước mơ là được góp mặt trong đoàn người gan dạ, tay mang móc sắt, bụng buộc dây thừng, hè nhau hì hục leo lên đỉnh Bình Phong. Họ nối thành một dọc năm người, kết nhau bằng những sợi dây, nhìn xa xa như năm con nhện bị trời buộc chỉ cho dính chung với nhau, cùng nhau trèo lên vách tường dựng đứng. Qua bên đó là sống. Chỉ cần chạm lên cái đỉnh đó là sống. Còn quay đầu xuống là chết, không hề có đường lùi. Mỗi tháng hai lần, người xóm tôi lại rì rầm họp nhau, rủ nhau trèo qua Bình Phong. Họ luôn bắt đầu leo vào lúc tờ mờ sáng hoặc nhập nhoạng tối, nhìn vách núi bằng đôi mắt trần tục xuyên qua vùng sáng lạnh lạnh, âm âm, không rõ nên gọi là màu xanh hay màu tím. Người leo núi đầu quấn khăn rằn, mặc ba chiếc áo dài tay để giữ ấm. Họ nói trên cao tê cóng, máu vón cục cũng chưa biết chừng, không che chắn thì cứng cả người không nhúc nhích nổi. Cái áo ngoài cùng nhất định phải là màu xám, cho hòa vào đá núi. Bên dưới nhìn thoáng qua còn tưởng họ là đá. Họ tan vào đó thật.
Đoàn người leo núi trên vai luôn vác những cái gùi thắt bằng mây. Trong đó, như tôi lén tìm hiểu, có khi là củ sâm đào ở chân núi, có khi là một con rắn lớn, và thậm chí là những can xăng. Họ leo thành công lên đỉnh Bình Phong, biến mất sau bức tường đá kia, rồi qua một ngày hoặc một đêm, họ trở về. Lần này họ tụt xuống bằng một sợi dây cột đâu đó trên kia nên tốc độ nhanh hơn rất nhiều. Tới chân núi, họ châm lửa đốt phựt sợi thừng. Ánh lửa chạy băng băng trở ngược lên đỉnh, lập lòe cho tới khi sợi thừng tan ra thành bụi tro, bay biến theo gió núi. Vậy là tạm kết thúc một hành hình. Những cái gùi mây sau lưng bây giờ người ta chất đầy những bao thuốc lá, trên bao bì viết thứ ngôn ngữ kỳ lạ, rối rắm. Thuốc lá quấn đầy cơ thể họ bên trong ba lớp áo. Vài món đồ tinh xảo, đẹp mắt, và cả tiền. Ừ, là tiền. Những người leo núi về xóm như những anh hùng thắng trận hát khúc khải hoàn. Họ sẽ bước vào vòng tay của một bà già lem nhem nước mắt, một cô vợ vỡ òa nức nở, hoặc một bầy con nít nhảy cẫng, rần rần. Chỉ có một người duy nhất không được đón chào bằng mấy thứ nói trên. Ông ta lủi thủi, hắt hiu, rảo bước về căn nhà tường vôi trắng. Ông ta sẽ vấp phải lời chào của một đứa con nít rầu rĩ, ngác ngơ, duy nhất bằng một chữ: “Cha!” Ông ta là cha tôi.
Mỗi lần đoàn người chinh phục khởi hành là người xóm lén ra cửa mà ngóng. Họ có khi nín thở hoặc có lúc thở hắt ra, thậm chí đôi khi họ còn mấp mấy môi, đớp đớp vào gió như không tìm được nguồn không khí. Tôi cũng nhìn vào bóng cha, lúc ấy là một tảng đá nhỏ xíu, di động chậm rì rì trên bức tường dựng đứng. Tôi ngó sang bên đây, thấy một chị vợ quỳ sụp, xá liên miên vào núi Bình Phong. Tôi ngó bên kia, thấy một bà già cúi đầu thấm nước mắt bằng vạt áo bà ba. Tôi ngó lại mình, thấy căn nhà vôi trắng như giãn ra mênh mông. Trong căn nhà đó còn sót vài cái nhíu mày của cha và một ít mùi hương từ mái tóc mẹ.
Mẹ tôi bên kia vách núi, cha nói vậy. Khi cha leo lên đỉnh Bình Phong, ngó về bạt ngàn những rừng, những biển, những giàu có hồ hởi kia, cha có gặp được mẹ không? Tôi nghĩ là không. Nếu gặp được mẹ chắc chắn cha đã mang mẹ về rồi, tôi đâu còn là thằng xa mẹ. Có lẽ bên kia mênh mông quá, cha chưa tìm được vết dấu của người chung chăn gối, để cho ông cứ mãi lòng vòng hành trình trèo núi, kiếm tìm, tụt xuống, rồi lại trèo lên. Cái vòng lặp đời ông tròn trĩnh lắm, tròn tới mức không có chỗ cho tôi chen vào nổi. Tôi bám lấy vòng tròn bằng hai bàn tay ngắn cũn của một thằng nhỏ. Vòng tròn cứ xoay đều, xoay đều, tới một ngày thì gãy đứt. Cha tôi rơi. Ông đánh mất đời bằng một nỗi ngổn ngang. Tôi còn nhớ mình đã đứng trước hiên nhà mà ngó lên đó, thấy ông đã biến tan mà không hề va vào vách Bình Phong lấy một lần nào hết. Vậy là cha đã ở lại phía núi này, mãi mãi cách ngăn với mẹ bên kia một vách đá chơi vơi, thăm thẳm.
Và từ đó, tới tận ngày lớn, cứ lâu lâu tôi lại thấy cha mẹ về trong giấc mơ. Cha hiện ra với một cái nhíu mày buồn não ruột. Còn mẹ, mù mờ mùi hương hoa lài sau làn tóc bay bay.

*
Hàng ngàn cơn gió đâm đầu vào vách núi dựng đứng. Chúng nó tự sát. Thứ khí lưu tích tụ một lớp dày cộm đó khiến cho mặt đá lạnh cóng lên như đóng băng. Người phía trên tôi dường như lạnh quá mà khựng đi. Tôi không thấy anh ta nhúc nhích gì, đôi tay đang bấu vào cái móc sắt. Phía dưới, tôi không dám nhìn xuống nên không rõ, chỉ nghe tiếng thằng Thạch gọi ới lên:
– Leo nhanh lên đi, lừng khừng thì chết cả đám!
Tôi miệng đánh bò cạp, rít lên qua tiếng lách cách của hàm răng:
– Leo đi! Đừng sợ nữa!
Biểu người khác đừng sợ là một hành động vô nghĩa, nhưng không hiểu sao, gã phía trên đã bắt đầu nhấc tay. Anh ta quẳng mạnh móc sắt vào một gờ đá cứng, nghe tiếng “cách!” khô khốc truyền xuống rồi bạt đi trong gió. Chân trái gã cũng chọn một cái kẽ mà nhét ngón chân vô. Người phía trên, rồi phía trên nữa cũng đã bắt đầu leo trở lại. Cái sợ trong lòng chúng tôi vơi bớt một chút khi tập trung leo. Cái sợ đã miễn cưỡng tránh qua một bên khi vất vả, cực nhọc có chỗ chen vào.
Chuyến này là chuyến leo Bình Phong đầu tiên của tôi và thằng Thạch. Cả đoàn năm người có hai người lão luyện, leo ở đầu để vạch lộ trình, chọn chỗ đeo bám dễ nhất, trong khi những thằng non kinh nghiệm như tôi và nó là ở chót cùng. Hai gã dẫn đầu là hai ông anh trung niên, trạc tuổi cha tôi ngày trước. Một người rất kiệm lời, chỉ ậm ừ, còn người kia thì mồm miệng liên hồi như sợ người khác cướp mất phần nói. Gã đã nói đi nói lại suốt mấy ngày trời là tụi bây đã sẵn sàng chưa? Có chắc mình muốn leo Bình Phong không? Mà hỏi thừa, thằng nào trong cái xóm này mà không muốn leo lên đó. Đi về một chuyến là đủ sống cả tháng, có ngu mới không đi. Rồi gã lại căn dặn đủ điều về kỹ thuật leo, cho dù đó chỉ là kinh nghiệm của dân vùng này đúc kết sau vài chục lần táng mạng, chớ không có sách vở học hành gì ráo. Gã nhắc về cái lá thuốc ngậm trong miệng để nước miếng tứa ra, tránh khô cổ. Gã căn dặn chén nước mắm phải uống trước khi đi để giữ ấm. Gã bàn về cọng dây buộc dính móc sắt vô cổ tay. Gã luyên thuyên về sợi thừng nối năm kẻ mạo hiểm, và quy luật sống chết giữa lưng chừng trời, một khi sinh tử không còn nằm hoàn toàn trong tay chính mình nữa. Lời gã nói ban đầu thì còn hữu ích, chớ một khi lưng chừng trời nó trở thành gió thoảng mây bay. Bây giờ thằng nào gan lì là sống, vậy thôi.
Chúng tôi đã leo được chừng bốn mươi lăm phút, kể từ khi mặt trời chưa ló dạng. Bình minh mùa này èo ọt, có cũng như không. Nắng sớm cũng lạnh tanh như gió mùa đông bắc. Tại sao chúng tôi chọn thời điểm khởi hành là tờ mờ sáng? Cái này phải khen gã mồm mép. Kinh nghiệm của gã nói rằng trong thứ ánh sáng mờ tỏ của hai thời điểm chuyển giao ngày và đêm, thị lực của con người là kém nhất. Cảnh sát biên giới chắc chắn sẽ không thể phân biệt được màu áo xám của chúng tôi với mấy tảng đá trắng núi Bình Phong. Mùa này bình minh lên chậm hơn, nghĩa là khi mặt trời sáng rõ, chúng tôi đã ở khuất xa tầm mà người ta có thể nhận diện. Họ luôn biết có người trong xóm muốn leo qua đó, nhưng họ sẽ không can thiệp nếu không thể bắt tại trận. Họ sẽ làm lơ, vì chẳng người cảnh sát nào muốn đuổi cùng dí tận những kẻ sa cơ lỡ vận đến nỗi trốn lên lưng chừng trời.
Tay chân tôi đã mỏi nhừ, thằng Thạch bên dưới có lẽ chẳng khá hơn. Chúng tôi không hề lường trước được việc leo núi này bòn rút sức lực kinh khủng như vậy. Dù rằng chúng tôi đã tập luyện tới mức tay chân đầy cơ bắp, ngực nở, bụng cứng, nhưng vẫn quên trừ hao việc sức gió và trọng lượng trên đỉnh trời cấp số nhân theo từng bước chân. Không khí loãng dần, cùng cái lạnh góp phần giày xéo mấy lá phổi. Nhưng không phải chỉ thể chất, tinh thần mới là thứ đang bị núi Bình Phong giày vò. Nỗi bất an cứ chực chờ nhảy xổ ra khỏi tim chúng tôi. Tôi ngu dại, lỡ tò mò nhìn xuống xóm, thấy xa tít mịt mù, có cụm mây trắng che ngang tưởng như sương khói. Đầu tôi quay cuồng muốn chúi nhủi. Sống lưng đột nhiên dợn lên, trong khi lông tay thì dựng đứng. Thể xác tôi bám cứng vào đá mà tâm hồn dường như rơi tọt xuống dưới kia mất rồi. Thằng Thạch bên dưới chửi lớn:
– Mày ngu! Nhìn lên trên liền!
Tôi sực tỉnh, ngó vào chân gã bên trên trân trân, cố gắng định thần. Tôi lẩm bẩm câu thần chú được dạy: “Leo lên, leo lên, leo lên…”.
Thằng Thạch, nó lớn hơn tôi một tuổi. Nó là đứa gan dạ, khỏe mạnh, trưởng thành nhất trong lứa tụi tôi. Cũng như tôi và bao gã leo núi khác, nó sinh ra trong một gia đình đủ nghèo để ép nó phải tìm mọi cách kiếm tiền. Sống ở chân núi Bình Phong, đời chúng tôi bị thứ bóng râm cao vợi đó che phủ hết trọi, còn làm gì khác để vươn lên được ngoài cố gắng leo qua núi? Leo qua đó là một vòm trời xanh hơn.
Lần đầu tiên tôi gặp thằng Thạch là lúc tôi đã là thằng mồ côi. Nhưng nó thì có một bà mẹ mù lòa. Có lẽ đời bạc đãi nó ít hơn tôi một chút. Không hiểu sao cái thằng bự như con trâu, tánh tình hào sảng đó lại coi một thằng ù lì, lầm lũi như tôi là anh em. Chúng tôi thân với nhau một cách tự nhiên, tôi chưa bao giờ cố gắng ép mình ráng qua lại với nó hết. Nó vẫn thường xuyên nhường củ khoai, chén cháo cho tôi, dù lúc đi ăn xin cùng nhau nó vẫn cực hơn nhiều do phải cõng theo bà mẹ mù lòa, chân còng queo. Nó cứ lải nhải miết: “Lớn lên tao với mày leo qua Bình Phong. Qua được bên kia là hết khổ!” Lời nói của nó như mấy can xăng tạt vô ngọn lửa âm ỉ trong lòng tôi bấy nay. Đúng! Qua bên kia là sẽ hiểu tại sao hồi xưa cha tôi phải ráng leo. Qua bên kia là sẽ biết mẹ tôi đã đi về đâu. Qua bên kia núi, sẽ biết đời có vui hay không.
Người dẫn đầu là anh ít nói. Anh ta mải miết leo, không gấp gáp nhưng cũng không lo sợ. Kế tiếp, gã mồm mép dường như không thèm giữ sức, những “ráng lên!” với “leo nhanh lên!” cứ chốc lát lại rơi ra. Gã chết nhát ở vị trí thứ ba. Tôi nằm trên cái đuôi là thằng Thạch. Nó đã giành với tôi vị trí đó, cho rằng nó lớn hơn thì phải bảo vệ cho tôi.
– Mày mà trượt chân, tao ở bên dưới sẽ đỡ mày liền!
Nó nói vậy. Thằng Thạch luôn tốt với tôi như anh em ruột thịt, dù rằng người thân cuối cùng trong đời tôi đã tan biến vào chân núi Bình Phong lâu rồi.
Chúng tôi đã đi được hơn nửa đoạn đường. Bình Phong cúi đầu ngó xuống, coi thứ kiến cỏ đang lẫm chẫm, bấu víu vào nó. Sức lực chúng tôi đã gần cạn kiệt, bây giờ là leo bằng ý chí. Cái gùi chứa đầy xăng sau lưng tôi cứ sóng sánh, lỏm bõm cự nự. Thằng Thạch phía sau vẫn liên tục động viên: “Gần tới rồi, ráng lên mày ơi!” Tới là tới đâu? Tay chân tôi lạnh toát vì nhiệt độ trên cao xuống thấp, nhưng mồ hôi cứ rỉ rỉ sau ba lớp áo, khó chịu vô cùng. “Qua được lần đầu tiên là quen thôi, tiến lên tụi mày!” Gã mồm miệng lại nói vọng xuống. Tôi bất giác ngước lên, thấy mặt trời chênh chếch ném một tia chói vào mắt mình. Bóng dáng ba người phía trước tối đen, và một vật gì lớn dần, lớn dần trong ánh sáng. Tôi giật mình, nghiêng đầu né tạt sang một bên. Vật đó rơi vụt ngang rất nhanh, rất mạnh. Kế tiếp, tiếng “bốp!” đanh gọn. Tim tôi đập thình thình, tay chân lóng ngóng vội vàng bám chặt vách đá vì lỡ lơi tay sau phen bất ngờ ban nãy. Tôi nghe cọng dây thừng siết ở bụng trì nặng, đến tức thở. Rồi gã chết nhát bên trên rú lên: “Trúng thằng Thạch rồi trời ơi!”
Thằng Thạch lúc đó đầu đã rỏ máu. Máu đỏ ướt mem hết gương mặt góc cạnh, xương xẩu của nó. Nó rên lên một tiếng khẽ khàng, âm thanh lập tức tan trong tiếng gió hú. Tôi chết điếng. Tay thằng Thạch đã lơi ra, đôi móc sắt huơ vào không trung, đánh vào mặt đá leng keng. Nó thả mình rơi sạt xuống khoảng không rồi bị sợi dây ở bụng níu cứng lại. Sợi thừng nghiến lên ken két. Bốn người may mắn thoát được cục đá lở bây giờ đang gồng cứng mình, bám vào vách núi để treo thằng Thạch tòng teng.
“Kéo nó lên!”
Gã mồm mép biểu. Tôi thử dùng một tay bám vào móc sắt, tay kia lay cọng dây thừng. Sợi dây đã căng cứng, nặng trì. Nếu tôi rảnh cả hai tay cũng chưa chắc gì kéo nổi thằng đàn ông nặng hơn tám mươi ký đó, huống hồ chỉ còn một!
“Nó nằm xụi lơ! Không biết xỉu hay là chết.”
Gió đẩy thằng Thạch đong đưa như con lắc đồng hồ. Sức nặng nhân lên, tôi kinh hoàng biết cơ bắp mình đã tới giới hạn, tay chân đã run lên bần bật. Bên trên, gã nhát gan đã bắt đầu hét toáng. Hắn kêu trời kêu đất, la ó um sùm không kiềm chế được. Miệng hắn cứ tuôn ra mấy chữ mà không ai muốn nghe lúc này. “Chết rồi! Chết thật rồi!” Trong khi đó, gã mồm mép cố gắng nói át tiếng khóc người bên dưới, hắn xổ một tràng:
“Tụi tao trên này cũng sắp hết sức rồi. Nặng quá! Thằng kia, mày có im liền không? Tập trung mà bám chắc! Đâu tụi mày thử hét lớn tên nó coi, nó có tỉnh dậy không? Mẹ bà, nó đong đưa kiểu đó tỉnh dậy cũng không làm sao lấy đà chụp vô đá nổi. Nó càng đong đưa mình trên này càng nặng!”.
Tôi gào tên thằng Thạch bằng tất cả hơi sức. Cơn sợ chết trờ tới, dứ cái lưỡi liềm vào cổ làm nước mắt tôi trào ra. Tiếng hét đớn hèn như con nít òa khóc. Tình thế bây giờ tiến thoái lưỡng nan, leo lên tiếp thì chúng tôi không làm nổi, mà leo trở xuống nó còn khó hơn. Thằng Thạch cứ ì ra như một cục đá vô tri treo lủng lẳng. Nó bạt qua đây, rồi đu qua kia. Sức nặng ì thêm mỗi giây mỗi phút. Tôi ngó nó chằm chằm, độ cao hun hút làm mắt tôi hoa đi và đầu óc thì bắt đầu quay cuồng chầm chậm. Tôi nhác thấy vài giọt máu trên đầu thằng Thạch rơi ra khoảng không. Chấm đỏ mất hút vào những nóc nhà xám mờ xa tít. Rồi năm chúng tôi sẽ kiệt sức mà rơi xuống đó hết. Năm thằng sẽ trở về xóm, nham nhở, chơi vơi. Có thể một ngọn cây trụi lá sẽ xuyên suốt người thằng Thạch. Còn tôi, xuyên qua mái căn nhà tường vôi trắng của mình rồi lún vào đất sâu. Cái nhíu mày của cha và mùi hương hoa lài trên tóc mẹ sẽ tan biến ngay khi tôi chạm vào đất. Chắc là sẽ như vậy rồi.
“Cắt dây đi!”
Tiếng nói lạ hoắc, lạnh như mặt đá núi Bình Phong thì thào thốt ra. Từng chữ một len hòa vào hơi gió, phả xuống ba người bên dưới đang chống chọi với cơn mỏi cơ bắp. Tự sáng tới giờ, người dẫn đầu của chúng tôi mới cất lời. Câu nói đầu tiên của anh ta là một câu ra lệnh. Tôi ngác ngơ nhìn lên, nghe gã mồm miệng vuốt đuôi theo:
“Phải rồi, đành chịu, không thì chết cả đám! Coi như nó xui chớ biết làm sao.”
Tên chết nhát lại khóc rú lên, hắn phụ họa bằng một tràng nức nở:
“Cắt dây đi! Mày cắt đi! Tao không muốn chết!”
Mày không muốn chết hả? Vậy Thạch, mày có muốn chết không? Tôi ngó thằng Thạch, nó vẫn còn đu đưa như con nít chơi trò đu tàu dừa. Trong đầu tôi chạy qua muôn hình ảnh của thằng Thạch. Nụ cười hà hà ngây ngô của nó. Cảnh nó hồi mới lớn, cõng bà mẹ mù lòa đi xin ăn. Cảnh nó mót cơm thừa, canh cặn trong quán, bị người ta xua đuổi. Cảnh nó mắt đỏ hoét, nốc rượu pha cồn ừng ực sau lần đột quỵ đầu tiên của bà già. Tất cả những cảnh đó tôi nhớ rõ, rất rõ, bởi vì lúc đó tôi luôn có mặt. Đời mày khổ dữ vậy Thạch à. Khổ có thua gì tao, nhưng mà mày có muốn chết không? Chết mẹ cho xong, chết là hết! Sống chi mà phải khổ sở như vậy?… Tôi không đoán được câu trả lời của nó. Bản thân tôi thì tôi không muốn chết.
“Cắt dây đi!”
Ba người bên trên không hẹn mà cùng đồng thanh.
“Mày không cắt thì tụi tao cắt sợi dây của mày”. Người dẫn đầu nói, vẫn lạnh tanh.
Lằn ranh mỏng dần, mỏng dần, rồi biến mất. Màu đen đổ tràn vào màu trắng. Thứ ánh sắc nhơ nhuốc kia nuốt trọn thứ màu tinh khôi, trở thành một màu xám xịt. Xám như đá núi Bình Phong, như mấy mái nhà dưới xóm, và như màu áo của chúng tôi. Tay tôi lẩy bẩy lấy ra lưỡi dao, trái tim ghì nó lại còn khối óc thì đang đẩy nó tới. Từng nhịp cứa chầm chậm, chầm chậm. Tiếng sợi thừng rên lên lít kít. Và sự đứt phăng diễn ra nhanh như một ánh chớp, nhanh như sự trút bỏ gánh nặng ùa vào bốn người còn lại đang bám trên đá. Thằng Thạch biến mất. Tôi không kịp nhìn nó lần sau chót. Bình Phong nhẹ nhàng bôi xóa hình ảnh thằng người, mất tiêu.
Chúng tôi lầm lũi leo tiếp mà không ai nói với nhau lời nào nữa. Chúng tôi cũng không dám nhìn xuống xóm lần nữa, xem chuyện gì sẽ xảy ra. Rồi thằng Thạch sẽ tan vào đâu? Vào đất, cát, cây, hay vào bà già của nó? Cơ bắp bây giờ đã bị một nỗi man mát che lấp, không còn biểu tình là mỏi nhừ hay đau đớn nữa. Chúng tôi để cho núi Bình Phong mặc nhiên dẫn mình leo lên cao. Trong đầu tôi lại hiện ra hằng trăm câu hỏi vu vơ, không đầu không cuối. Hồi đó, cha là ai? Là thằng Thạch bị người bạn nối khố cắt đứt? Hay cha là tôi? Cố gắng gánh gồng bạn tới phút cuối cùng rồi buông tay để rơi? Tôi không nhớ và tôi không biết. Còn mẹ, mẹ có ở bên kia núi thật không? Mẹ làm cách nào để trèo qua vách núi dựng đứng, thản nhiên đi mất hút vào ánh sáng bên đó? Tại sao mẹ bỏ đi, để lại căn nhà vôi trắng một khoảng mênh mông vô định? Mà đi thì đi luôn đi, sao còn quăng lại làm chi cái mùi hương hoa lài trên tóc quái ác đó? Cái mùi quấn lấy đời cha con tôi đau rát không buông?
Tôi thấy có sợi tóc nào bay từ trên đỉnh Bình Phong trở xuống. Nó trôi bồng bềnh như một đám mây. Sợi tóc bay qua tôi rồi chìm sâu xuống đáy vực.
*
Bên trên đỉnh Bình Phong có gì? Ở đó ngập tràn thứ ánh sáng hoàng kim của một buổi bình minh rực rỡ. Ánh sáng chiếu tràn ngập từng hốc đá, ngọn cỏ, đuổi phăng không cho hiện diện dù là một chút bóng tối nhỏ nhoi. Chúng tôi nằm ngửa ra trời, chờ cho sức ấm nóng nung chảy hết buốt lạnh từ vách đá. Chúng tôi nằm đó mà thở, biết mình còn được thở. Trên đỉnh Bình Phong là trời. Bên xóm tôi, bên trên cũng là trời. Trời trên này có khác không? Trời bên kia núi có khác không?
Người dẫn đầu chậm rãi ngồi dậy đầu tiên. Anh nheo mắt nhìn xa xăm một chân trời nào đó. Anh nhắc về gốc cây có buộc miếng vải đỏ làm dấu, và nói về điểm tập kết hàng hóa của những người nước ngoài. Tên mồm mép thì cười ha hả, nói liên hồi, không giấu được sự vui mừng vì giữ được tánh mạng. Hắn nói về số tiền sắp kiếm được, về hành trình căng thẳng mà bốn người mới trải qua. Gã nhát gan thì cứ khóc, cứ khóc. Ngộ vậy? Chết cũng khóc, mà sống cũng khóc.
Tôi quay người, quỳ trên hai gối, chống tay, ngẩng đầu đứng thẳng dậy. Mặt tôi hướng về phía vách bên kia của dãy Bình Phong không chút do dự. Chân trời sáng rực rọi lên đồng tử tôi một ánh lòa chát chúa. Tôi thấy trong sâu hút đó có căn nhà tường vôi trắng. Trước hiên nhà có cha, và có cả mẹ. Họ mỉm cười rất tươi, hạnh phúc ngập tràn. Tôi nghe nước mắt tự nhiên tròng trành, trong lòng lâng lâng, chìm đắm. Tôi dợm bước chân về phía ánh sáng, đột nhiên khựng lại khi va trúng một điều kỳ lạ, bất thường mà mình không giải thích được. Dù đang cười, đôi mày của cha vẫn đang nhíu lại như xưa, còn mùi hương hoa lài quyến rũ từ tóc mẹ vẫn tỏa ra một cách nức nở. Chợt khi ấy, giọng thằng Thạch vang lên sau vực:
“Bên kia vách núi có gì mậy?”
Tôi sững người. Bình Phong chơi vơi.
“Có vách núi…”
Vương Đình Khang















