Bây giờ, anh tôi đã thành đạt, người ta nói anh gặp may. Tôi không phủ nhận điều ấy. Bởi đời người, ai cũng có lúc gặp may mắn hay đen đủi. Điều  muốn nói ở đây, khi vấp ngã, hoặc cuộc sống nghèo đói cơ cực có biết cách đứng lên, hay bi quan chán nản? Điều đó thể hiện bản lĩnh của mỗi con người. Và ai biết chớp thời cơ, biến cơ hội thành hiện thực, nhân rộng cái may thành nền tảng vững chắc, chỗ đứng cho bản thân cả một đời người. Hay để mất cái may như “gió thổi mây bay”.

 Tôi đang nói về anh Nguyễn Văn Đoàn, người anh em con cậu con cô. Quả thực, anh có số hên, như cách nói của người miền Nam. Là nghe dư luận nói về anh như thế, chứ bản thân tôi không nghĩ vậy. Bởi những gì anh có được hôm nay đều do bản thân vật vã, mày mò, lần tìm lối đi cho mình bằng mồ hôi và nước mắt, đầy ý chí và  nỗ lực, mà nghe như…chuyện cổ tích.

Tổng Bí thư- Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong lễ tuyên dương Nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm đổi mới. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Tôi và anh thân thiết với nhau từ nhỏ, sống chung ở một xóm ven sông (xóm Thọ Phú- xã Quỳnh Thọ- huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), chung giếng nước, đường làng, chia sẻ đói nghèo, thấm thía cơ cực đói khát, hiểu  giá trị những gì mình đang có được.
Tôi không bao giờ quên cái nghèo đói, bữa ăn chìm trong “muối mặn gừng cay” với khoai, rau, cơm chia từng bát. Cơm độn khoai, sắn, có lúc độn cả cám cũng không đủ no. Quanh năm đói, áo không đủ ấm, nhà nào làm thịt gà là phải có công việc quan trọng như cưới hỏi, giỗ chạp. Thi thoảng có bữa cơm no, có cá mắm là kết quả của ngày lao động nặng nhọc, phấn đấu của cả gia đình vã mồ hôi và nước mắt mới có được.
Cuộc sống của chúng tôi ngày thơ bé như vậy. Sống lầm lũi trong cái nghèo mãi rồi cũng quen, khổ mà vẫn không biết mình đang khổ. Tuổi trẻ hồn nhiên, vẫn cười đùa vui vẻ, dù rằng thân hình còm nhom chỉ có da bọc xương, đuổi theo từng con còng gió nơi bờ sông, đem về nhà nướng thơm lừng để chia nhau. Nhưng cuối những năm tám mươi (tôi nhớ năm 1985-1986) cái nghèo không thể nghèo hơn được nữa. Cơm độn khoai, độn cám cũng không còn, sống cầm chừng lay lắt, đói và rét triền miên năm tháng, hoa cả mắt, trong nhà không còn gì để ăn. Cái nghèo trượt thêm, năm 1985 cả nước đổi tiền, nghèo có chiều hướng xuống dốc. Có hôm nhà trống trơn, nồi niêu khô coong, phải hái rau khoai thái nhỏ, trộn muối, nấu nhừ để cầm hơi. Đói thường đi với bệnh. Bệnh tả. Khủng khiếp. Tôi không biết cái đói năm 1945 như thế nào, nhưng cái đói của những năm 1985- 1986 được chứng kiến, không bao giờ quên. Quê tôi đất chật người đông, gió Lào gay gắt, cây cối quắt queo. Mùa mưa, lũ lụt trôi nhà trôi cửa, con đê yếu ớt không đủ sức chống đỡ, nước biển tràn về, vỡ đê. Cả cánh đồng lúa chìm trong nước mặn. Tiếng đàn bà, con trẻ khóc như ri! Lấy gì để ăn khi mùa vụ mất trắng. Biết chạy đâu cho thoát cái nghèo? Khổ nhất vẫn là nhà đông con “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”! 
Gia đình nhà cậu tôi, Nguyễn Văn Cử có tám người con, bảy trai, một gái, trong đó anh Nguyễn Văn Đoàn là người con thứ tư, học phổ thông giỏi nhất nhà. Các con của cậu đang tuổi ăn, tuổi lớn, sống trong những năm tháng đói nghèo, cuộc sống luẩn quẩn, chưa có đường ra?
Khi cái đói đến mức không chịu đựng nổi thì mọi ước mơ đều phải dừng để tập trung tìm cái ăn cho bụng sôi réo hằng ngày. Anh Nguyễn Văn Đoàn đi tìm đất mới, tìm sự sống như các anh chị trong làng đã tản mạn bốn phương, hành trình xuôi ngược “sống hay là chết”?
 Ngày ấy, vùng đất người làng tôi chọn, dừng chân để mưu sinh là huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm đồng theo lời mách bảo của những người đã đi qua chiến tranh. Họ là người lính đã từng đóng quân ở đó. Nơi ấy, dân thưa, không khí thấp ôn hòa, đất tốt và rộng lớn thích hợp với các cây á nhiệt đới, nhiều giống cây trồng cho củ, quả, rau, có tiềm năng năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Và nữa, huyện Đức trọng còn là đầu mối giao thông đường bộ giữa Quốc lộ 20 với Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Nha Trang và Quốc lộ 27 kết nối Đà Lạt, Buôn Mê Thuột…
Anh Nguyễn Văn Đoàn cùng những người làng theo dòng người tập kết ở đường Quốc lộ 1 cùng “Nam tiến” về vùng đất hứa với ước mơ đổi đời.
Không nói hết cái khổ của những con người “tha hương cầu thực”. Số tiền trong túi không đủ tiền xe, tiền ăn uống dọc đường, chui lủi nhờ vả các chuyến xe tải, đứng ngồi lẫn lộn với hàng hóa, xin nước uống từng ngụm sau khi đã ăn cái bánh mì chống đói.
Vật vã mất mấy ngày đêm ở đường trường, anh Nguyễn Văn Đoàn cùng nhóm người hốc hác bơ phờ, áo quần nhem nhuốc cũng đến được huyện Đức Trọng, nơi đất đai còn hoang vu vắng lặng. “Đất khách quê người”, trong tay không còn một xu, hai bàn tay trắng, chỉ có cách làm thuê để cứu thân tồn tại. Ai thuê gì làm nấy. Khi thì Xí nghiệp nhà nước thuê, khi thì dân thổ cư hợp đồng theo mùa vụ, hầu hết làm vườn, trồng cây rau củ quả, chăm sóc, thu hái, vận chuyển ra chợ Liên Nghĩa ở thị trấn tiêu thụ. Những người nơi xa đến, xuất thân từ nông dân, có việc làm, quen thuộc với đồng ruộng, lăn xả vì việc đang làm, thành tâm với đất. Đất không phụ lòng người. Chủ thuê trả công xứng đáng. Dần dà, anh Đoàn và mọi người thu nhập đủ sống, lần hồi, tiết kiệm mãi cũng có của ăn, của để. Người và đất huyện Đức trọng đã mở rộng tấm lòng mến khách nhập cư người xa xứ vào đất trời Tây Nguyên mênh mông.
Việc làm ổn định, anh Nguyễn Văn Đoàn còn bén duyên nơi đất khách quê người. Trong một lần đi tiêu thụ sản phẩm cây trồng ở chợ Liên Nghĩa, thị trấn Liên nghĩa gặp chị Đặng Thị Minh Thuận sinh ra ở đất Đức Trọng, có một tấm lòng yêu đất, sống vì đất, lầm lũi lao động nơi vườn đồi, cũng đi bán rau ở chợ giống anh Đoàn. Hai người quen, rồi tâm đầu, ý hợp, có duyên phận, thành vợ, thành chồng như trời xui đất đẩy.
 “Góp gạo ăn cơm chung”, vốn liếng của anh Đoàn, chị Thuận ngày ấy, gom góp lại chỉ đủ mua vài sào đất vườn đồi. Nhưng anh chị nắm bắt được hơi thở của thị trường, lại tấn tảo, siêng năng, tiết kiệm, quan hệ với khách hàng tốt, biết tính toán, nên chỉ có mấy năm đầu xây dựng, hai vợ chồng đã có vốn kha khá, rồi phát triển dần lên. Vợ chồng tích lũy được đồng nào, đều dành mua đất. Đất cho thuê trồng rau, củ quả, giúp đỡ người nghèo khổ. “Hữu xạ tự nhiên hương”, khách hàng, bạn bè, quê hương tìm về với anh Đoàn. “Đất lành chim đậu”, những nơi đất hoang vắng, nơi ngày xưa ít người qua lại, giờ thành khu, ấp, thôn đông đúc, nhộn nhịp người, đông vui. Vợ chồng anh Đoàn từ 2 sào đất vườn, dần dần lên mấy chục sào, và cho đến giờ có hơn 100 ha được trồng nhiều loại củ quả, như: Cà rốt, khoai lang, củ cải, ớt, cà tím, cà chua được chăm sóc kỹ lượng, chất lượng tốt. Có những giống cây như cà rốt, củ cải do anh Đoàn là người đầu tiên đưa vào trồng ở đất Đức Trọng!
Đặc biệt, vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn còn có tấm lòng bao dung, độ lượng, luôn giúp đỡ người có hoàn cảnh nghèo khổ giống mình như ngày xưa, với người anh em, họ hàng, cùng quê đang đói, không có việc làm, anh Đoàn dẫn dắt đưa vào đất Đức Trọng, cho vay vốn, thuê đất, tạo công ăn, việc làm, nơi ở với mong muốn người quê thoát nghèo. Cho đến giờ, hơn hai mươi năm trời ( tính từ ngày anh Đoàn đầu quân, nhập cư) ở các huyện Đức Trọng, Sơn Dương, Lâm Hà( Lâm đồng) ngày ấy thưa dân, giờ đã có hàng trăm hộ người quê anh Đoàn đã vào Lâm Đồng lập nghiệp đều phát triển về kinh tế, không nghèo đói như xưa. Họ còn thành lập Hội đồng hương xã Quỳnh thọ (Quỳnh lưu, Nghệ An) ở Đức Trọng, Lâm Hà, Sơn Dương đùm bọc, giúp đỡ nhau lúc ốm đau, bệnh tật, hướng dẫn làm kinh tế. 
Không chỉ giúp người cùng quê, anh Nguyễn Văn Đoàn còn có trách nhiệm công dân với nơi cư trú. Hàng trăm người lao động ở huyện Đức trọng và vùng phụ cận đã được anh Đoàn nhận vào làm công nhân: lái xe ô tô, máy cày, trồng cây chăm sóc, sơ chế củ quả…vv
Công việc ngày càng phát triển, quy mô lớn, với nhu cầu tất yếu của cuộc sống, vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn quyết định thành lập Hợp tác xã Nam Sơn năm 2014 do anh làm giám đốc. Hợp tác xã liên kết với các hộ, cho thuê đất, cấp giống, phân…mua hết sản phẩm, tìm đầu ra. Người nông dân yên tâm sản xuất, tính toán thu chi đầu vào, đầu ra, có lãi, ổn định cuộc sống, hàng trăm hộ nông dân là người dân tộc thiểu số ở huyện Đức Trọng được vợ chồng giám đốc hướng dẫn làm việc ngay trên vườn đồi, có thu nhập ổn định, thoát nghèo, có hộ đã vươn lên làm giàu bền vững.
Ngoài canh tác trên vườn đồi, anh Nguyễn Văn Đoàn còn đầu tư hàng tỷ đồng sản xuất phân vi sinh chế biến từ phế phẩm nông nghiệp, chất thải, góp phần làm sạch môi trường và cải tạo nuôi dưỡng đất. Có những lúc sản phẩm từ vườn đồi tiêu thụ không kịp, hàng ế, hợp tác xã không bỏ mặc người nông dân, mua hết, trả tiền sòng phẳng, nghĩ ra cách tiêu thụ khác. Củ cải, ớt chế biến sấy khô, cho vào phòng lạnh, hay như dưa củ cải mặn ngọt “Đoàn Thuận” đủ tiêu chuẩn nhập dần vào các siêu thị ở miền Nam. Đây thực sự một cách làm mới, tỉ mỉ, cần mẫn vì cuộc sống của người nông dân. Phải chăng, đó cũng là một phẩm chất, nhân tố quan trọng của người kinh doanh như anh Đoàn. Hợp tác xã Nam Sơn đã không bỏ phí sản phẩm nào do người nông dân làm ra.
Công việc hàng ngày dày đặc, kín mít, anh Đoàn quần quật từ sáng cho tới tối ngày vẫn chưa nghỉ ngơi. Chăm sóc vườn đồi được cơ giới hóa, tự động hóa, công nghệ cao, hệ thống điện, nước tưới tiêu phải hướng dẫn người nông dân, nhất là dân tộc thiểu số còn hạn chế về kiến thức hiểu biết. Buổi sáng anh Đoàn dùng ly cà phê cũng không ngon, phải trả lời điện thoại điều hành công việc tới dăm bảy lần. Hiện tại vợ chồng anh Đoàn có 20 xe tải, 2 ô tô dùng máy lạnh, 40 máy cày, 2 cơ sở sơ chế rau, củ, quả, và khoảng 500- 600 công nhân thường xuyên chăm sóc cây trồng, chưa kể đội ngũ lái xe, bộ phận hành chính. Đỉnh điểm cao nhất mùa vụ ở hợp tác xã Nam Sơn có lúc lên tới hàng nghìn người lao động tấp nập.

Anh Nguyễn Văn Đoàn kiểm tra củ cải khô ở phòng lạnh. Ảnh: Đàm Quỳnh Ngọc

Ngoài việc điều hành ở hợp tác xã, anh Nguyễn Văn Đoàn còn các mối quan hệ tốt đẹp ở địa phương. Anh nhập cư ở Đức Trọng đã lâu, quan hệ rộng rãi, gần gụi với người lao động, chính quyền. Vậy nên, hầu như ngày nào cũng có người mời đám cưới, giỗ chạp, liên hoan, hay khách ở quê ra, bạn bè, quan hệ với các tổ chức khác. Hàng ngày, vợ chồng anh Đoàn làm cho hết việc phải “chạy sô”. Chạy ngược, chạy xuôi từ nơi này đến nơi khác. Từ xưởng vi sinh, ra đồng ruộng, đến xưởng sơ chế, đến siêu thị, điều hành đội xe, thăm hỏi người nông dân ốm đau, mừng nhà mới, các cháu chẵn tháng. Bao nhiêu là công việc, vợ chồng anh Đoàn vẫn quán xuyến được hết, thu chi rõ ràng, quan hệ xã hội, bạn bè, anh em đều chu đáo, không mất lòng ai. Các hộ nợ hợp tác xã,  chứ hợp tác xã chưa bao giờ nợ người nông dân một xu. Thế mới biết sức lao động, niềm đam mê, thành tâm với đất, với người của vợ chồng anh Đoàn thật…vô địch. Dù rằng cả vợ chồng anh không có một tấm bằng nào về việc đang làm. Anh Đoàn học phổ thông chưa xong, vợ anh, chị Đặng thị Minh Thuận học hết phổ thông, nhưng chưa hề có một bằng cấp, chứng chỉ nào về nghề nông. Ấy vậy mà cả vợ chồng nói về nhà nông đều thông thạo vanh vách đến từng chi tiết, về các giống cây trồng, về phân, nước… Chị Thuận, còn giỏi cả  tiếng Anh, giao lưu với khách hàng, hoặc các cuộc hội nghị có khách quốc tế.
Tôi vào đất Đức Trọng, ở mấy ngày với vợ chồng anh Đoàn, đi khắp các vườn đồi ngày xưa là đồi tạp, giờ được quy hoạch trồng rau củ quả, đem lại thu nhập xứng đáng cho người nông dân. Có những quả đồi, ngoài rau củ quả còn trồng hoa. Hoa màu tím, hoa vàng rực rỡ, chim chóc kéo về nhiều, thấy có bóng người là bay vù lên đầy sức sống. Thiên nhiên đã được “định hướng”, rạo rực, đẹp như mơ. Tôi đùa: “Anh chị cái gì cũng biết, nhẽ ra phải được cấp bằng tiến sĩ nhà nông mới xứng”! Anh Đoàn cười: “ Không dám, thiếu gì thì học cái ấy O ơi, không ai dạy bằng đời dạy”. Tôi cười, không nói gì thêm, nhưng hoàn toàn tin tưởng ở vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn, chị Đặng Thị Minh Thuận, bởi những gì anh chị có được đều từ “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” mới có được. Mốc thời gian, sau ngày “đổi mới”, anh chị đã có nhiều thành công ở lĩnh vực nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người nghèo, thoát nghèo. Rau, củ, quả, sản phẩm của hợp tác xã Nam Sơn bây giờ có mặt ở các siêu thị ở Lâm đồng, và các tỉnh miền Nam như:  Đồng Nai, Vũng Tàu, Phan Thiết, Quảng Ngãi, Bình Dương, Cần Thơ, Phú Quốc, nơi tập kết nhiều nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh.
Thành công của anh chị đã góp một phần không nhỏ cho cuộc sống ở quê nhà, cho huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Đơn Dương của tỉnh Lâm đồng. Và không chỉ thế, rau củ quả ở Lâm Đồng ko dừng lại ở chế biến đơn giản tiêu thụ như ngày xưa, mà được cải tiến về quy trình công nghệ chế biến với ước mơ vươn ra cả nước ngoài…

Người nông dân đang chăm sóc cây trồng ở vườn đồi. Ảnh: Đàm Quỳnh Ngọc

 Vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn “ăn nên làm ra”, nhưng không bao giờ quên cội nguồn. Hàng năm anh chị trích thu nhập làm từ thiện, giúp người nghèo khổ, bất hạnh. Những lần về thăm quê nhà, vợ chồng đều thăm hỏi bà con làng xóm, họ hàng, giỗ họ đều tham gia đóng góp chu đáo, tặng quà cho người già, em nhỏ, chi tiền hàng trăm triệu đồng xây nhà văn hóa xóm, nơi anh “chôn rau cắt rốn”, cất tiếng khóc chào đời. Ở thị trấn Liên Nghĩa, anh Đoàn đã xây dựng 10 phòng học tại trường Tiểu học Nam Sơn trị giá bốn tỷ đồng, ủng hộ gần hai tỷ đồng làm đường nông thôn mới.

Hơn hai mươi năm đã trôi đi, chớp mắt của một đời người, nơi anh Đoàn dừng chân lập nghiệp, ngày ấy “cỏ cây chen lá đá chen hoa”, giờ có đường nhựa, bê tông, thông thương hàng hóa. Nhà ở của dân lên tầng thành khu phố. Cuộc sống toàn dân ở thị trấn Liên Nghĩa nói riêng, và nói chung là cả huyện Đức Trọng, Lâm Đồng đổi mới, có công lao đóng góp của vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn không nhỏ. Vườn đồi được quy củ thành lô, thành lối, chăm sóc kỹ càng, thiên nhiên đẹp hơn, du khách về ngày càng nhiều, cuộc sống của người lao động nhộn nhịp, sung túc hơn. Anh Nguyễn Văn Đoàn được cấp bằng, giấy khen trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa giai đoạn 2000- 2015, “Thi đua yêu nước tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2010- 2014”,  và thành tích xuất sắc hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản giai đoạn 2010-2015. Năm 2017 anh được nhận danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm đổi mới” góp phần trong lực lượng quan trọng quá trình phát triển đất nước, được gặp lãnh đạo đảng, nhà nước khen ngợi.
Vĩ thanh:
 Tôi viết bài này, gom góp lại những kỷ niệm tuổi thơ, gom góp những ngày tháng nghèo khổ cơ cực của một kiếp người đi lên bắt đầu từ số không. Những ngày tháng ấy giống như giọt nắng của mặt trời đang lung linh dẫn đường cho người nông dân như vợ chồng anh Nguyễn Văn Đoàn, và tôi bước tiếp trên đường đời.

 Đàm Quỳnh Ngọc                                                           

(Trại sáng tác tổng hợp Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An tháng 8/2019)