Bạn tôi

Năm 1968, chúng tôi đang học năm cuối cùng Cấp III Nam Đàn II. Hồi ấy phổ thông chỉ có 10 năm, nghĩa là chỉ vài tháng nữa là chúng tôi ra trường, vào đại học (không phải thi) hoặc đi học nghề. Cũng thời gian này chiến tranh bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Các đợt tuyển bộ đội cũng nhiều. Các anh chị lớp 9, lớp 10 năm trước nhập ngũ gửi thư về nói chuyện chiến đấu và hy sinh càng làm cho không khí trong trường sôi động. Hết giờ học, nghỉ giữa giờ là tụm năm tụm ba hỏi nhau bao giờ thì đến lượt nhập ngũ. Cây chuối đầu lớp học nham nhở những vết dao khía vào bẹ. Ấy là mấy đứa con trai, cứ hàng ngày tựa lưng vào đo xem mình cao bao nhiêu, đủ chiều cao nhập ngũ chưa. Nặng thì không ngại, các anh lớp trước truyền kinh nghiệm cho, khi đi tuyển bộ đội thì nhét đá vào túi quần cân cho đủ. Đứa nào cũng sợ chiến tranh kết thúc, không kịp nhập ngũ.

Tôi và Thanh, học với nhau lớp 10B. Cùng cảnh nhà nghèo nên đứa nào cũng đói. Hôm nào mẹ tôi cho nắm ngô rang, nắm khoai xéo, tôi bỏ vào cặp sách mang đến lớp chia cho Thanh. Hôm nào hắn có củ khoai là đút túi quần, gặp nhau chia cho tôi một nửa. Ở lớp tôi oai lắm, được cử làm Lớp trưởng kiêm Bí thư Chi đoàn nhờ nhiều tuổi nhất lớp, vì học dốt nên hồi lớp 4 tôi đã học đúp 3 năm lận. Thầy chủ nhiệm lớp tôi là thầy Nguyễn Bạch, đi bộ đội về, chưa vợ, rất trẻ trung và lãng tử. Thầy khoán trắng việc quản lý lớp cho tôi. Tôi phải giữ sổ lớp, theo dõi sỹ số học sinh, chấm điểm đạo đức cho các bạn…

Thanh có hai đứa em còn nhỏ. Cô em gái tên Ninh 16 tuổi và Quý 13 tuổi, bấy giờ chỉ có thể ra đồng mót khoai của hợp tác xã chứ chưa làm được gì nhiều giúp gia đình. Bố mẹ Thanh đã cao tuổi lại hay ốm đau. Mọi sự của gia đình Thanh phải gánh vác, kể cả lo đời sống hàng ngày. Ấy thế mà lạ, thỉnh thoảng hắn vẫn đón tôi về nhà, cái nhà gianh thưng phên nứa xiêu vẹo. Tôi mò đến ăn khoai, ăn bánh, có khi còn cả mít, dứa…. Những ngày thứ Bảy, Chủ nhật hay nghỉ hè là hắn biệt tăm hơi đã đành, ngày thường đi học hắn cũng vắng mặt nhiều lắm. Hóa ra hắn lên các chợ Gôi, chợ Choi tận Hương Sơn (Hà Tĩnh) buôn chè, mít, cau trầu, lá nón… Trên ấy sẵn, mua về bán sỉ ở chợ Đò, chợ Rồng… quanh vùng cũng kiếm được chút ít. Cứ nghỉ học hoài rồi đến lúc hắn thú thật với tôi. Từ đó tôi trở thành đồng phạm, che giấu cho hắn trốn học rất nhiều.

Làng xóm vẫn thanh bình sau những trận bom và máy bay Mỹ bắn phá. Việc ai người nấy làm, bình tĩnh, không sợ hãi. Những đoàn bộ đội và thanh niên xung phong vẫn ngày đêm vượt sông Lam vào Nam đánh giặc. Qua sông, họ đóng quân ở làng tôi có khi vài tuần rồi mới hành quân tiếp. Trong xã, khách đông hơn dân. Cũng thời gian đó quê tôi có mấy lớp của Trường Trung cấp Sư phạm từ thị xã Vinh sơ tán về. Học sinh toàn là nữ còn trẻ, mới tuổi 17 – 18, xinh lắm.

Các giáo sinh cùng sinh hoạt văn nghệ với bộ đội và thanh niên chúng tôi. Trước ngày Thanh nhập ngũ tôi có gặp Cúc, cô giáo sinh nhỏ nhắn, miệng cười rất duyên. Tôi biết phong thanh chuyện của hai người. Thanh khoe với tôi rằng anh chị quen nhau trong những đêm văn nghệ giữa thanh niên làng và giáo sinh trường Sư phạm. Những buổi trực lớp của Cúc, Thanh sang gánh hộ nước cho cô hoặc đào giúp cô và các bạn hầm cá nhân. Chưa đâu vào đâu cả thì lớp của Cúc biết và kiểm điểm cô, dọa kỷ luật vì đang học đã “trai gái”. Cúc khóc hết nước mắt và hứa với chi đoàn là chấm dứt. Cũng chẳng biết chấm dứt cái gì vì như Thanh nói với tôi là những buổi tối hai người đi chơi dù trên đê hay ở bãi mía ven sông Lam thì cũng chưa cầm tay nhau chứ đừng nói gì đến chuyện khác.

Trước ngày Thanh lên đường nhập ngũ, tôi và Thanh sang cầu Yên Xuân tìm đến một hiệu ảnh từ Vinh sơ tán về, hai thằng chúng tôi chụp chung một kiểu. Không ngờ, nhờ tấm ảnh này tôi đã in tách ra để có ảnh thờ anh, bởi ngoài tấm ảnh này Thanh không để lại một hình ảnh nào khác.

Thanh đi rồi, tôi cũng ra đi. Trời đày tôi xa quê, ra nước ngoài học tập trong nỗi nhớ đất nước đau thương và anh dũng đêm ngày đang vật lộn trong chiến tranh. Những ngày sống trong sung sướng, đầy đủ của thiên đường châu Âu suốt 5 năm trời, lúc nào tôi cũng nhớ Thanh. Ngay khi tốt nghiệp về nước tôi vào bộ đội và đi thẳng ra chiến trường. Tôi không có dịp về quê nữa nên không biết gì về Thanh.

Mấy năm sau, khi đất nước đã hòa bình, tôi mới biết bố mẹ Thanh già rồi nên đã mất. Tôi tìm được Quý, em nhớ tôi là bạn của anh trai nên chúng tôi thân thiết nhau ngay. Tôi hỏi thăm tin tức về Thanh, không còn gì để lại. Chỉ biết là Thanh đã hy sinh nhưng không biết ở đâu, chẳng biết có mộ không. Có vài người bộ đội tìm đến nhà khi bố mẹ còn sống nhưng là đồng đội của Thanh lúc mới nhập ngũ. Về sau chẳng ai biết Thanh ở đơn vị, binh chủng nào. Gia đình khi nhận được giấy báo tử thì tờ giấy rách bươm, nhòe mực không đọc rõ nơi hy sinh, ngày tháng hy sinh của Thanh.

Tôi ra quân, trở về Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam công tác. Suốt thời gian làm Tổng Biên tập Tạp chí  Khoa học xã hội Việt Nam và Vietnam Social Sciences, tôi canh cánh việc đi tìm Thanh. Nhờ công việc làm báo nên tôi mò khắp nước, khắp các cơ quan, địa phương, đơn vị cần đến; lần mò khắp nơi, chắp nối những mẩu thông tin rời rạc về Thanh nhưng vô vọng. Đế có thông tin đăng trên báo và truyền hình, tôi tìm gặp Cúc, may ra Thanh có gửi thư cho Cúc những ngày xa nhau, những năm tháng Thanh ra mặt trận. Bây giờ Cúc đã là Nhà giáo Nhân dân. Sau mấy chục năm Cúc vẫn giữ được mấy lá thư cũ nhàu nát, nét mực phai nhạt, nét chữ xiêu vẹo, chắc Thanh kê lên đầu gối hay gờ đá, mép chiến hào khi viết cho Cúc… Tôi sang Báo Nhân dân, Báo Quân đội Nhân dân và Đài Truyền hình với tờ giấy Báo tử nhòe mực và tấm ảnh Thanh chụp chung với tôi trước ngày nhập ngũ đăng tin “Đi tìm đồng đội”, nhưng bặt vô âm tín.

Tưởng tôi không biết gì về quan hệ giữa Thanh và Cúc, có lần em Quý kể với tôi rằng:

– Khi anh Thanh đi rồi có một chị giáo sinh thỉnh thoảng sang nhà thăm bố mẹ. Chị xưng con, tên là Cúc. Chị quét nhà, quét sân, rửa rau nhóm bếp, gánh nước giúp mẹ. Chị chơi thân với em và chị Ninh. Một hai năm sau lớp học bế giảng, các giáo sinh đi nhận công tác khắp nơi trong tỉnh Nghệ An. Chị Cúc được phân về quê Nghi Lộc dạy Cấp II nhưng năm nào chị cũng về thăm bố mẹ và các em. Hồi ấy nghèo đói nhưng lần nào về chị cũng tay xách nách mang, khi thì mấy cân mì sợi, khi thì mấy chục con cá trích, cá thửng… làm quà cho bọn em. Chị về hỏi thăm tin tức anh Thanh dăm bữa lại đi. Bố em thương chị, khuyên: “Trên bom dưới đạn thế này con đừng về nữa”. Chị chỉ cười vâng dạ nhưng năm sau, kỳ nghỉ hè lại về. Tháng 8 năm 1970, gia đình em nhận được giấy báo tử anh Thanh. Tang tóc đau thương đổ ập lên nhà em và làng xóm. Mẹ em chết ngất, bố ngồi im suốt ngày ôm khư khư cái điếu cày không nói một lời. Không ngờ, hai hôm sau chị Cúc về. Cả nhà em ngạc nhiên, làm sao chị biết? Chị khóc quá trời, hàng xóm sang chia buồn và động viên bố mẹ em, ngạc nhiên thấy chị chít khăn tang, sắp dọn ban thờ thắp hương cho anh Thanh. Hết một tuần chị xin phép ra đi trong nước mắt: “Thưa bố mẹ và các em con ngủ mơ anh Thanh đã hy sinh, con không tin nhưng cứ về thử xem sao. Không ngờ là vậy. Con phải đi rồi, lớp con nhờ bạn dạy hộ đã mấy hôm nay. Bố mẹ thương nhớ anh, các em thương nhớ anh nhưng biết làm sao bây giờ. Con đi rồi con sẽ về thăm bố mẹ và các em…” Mẹ em ôm lấy chị khóc nức nở, miệng gào to: “Thanh ơi, con hy sinh vì dân vì nước, bố mẹ mất con, mất luôn cả con dâu con ơi!” Trên trời máy bay đang vần vũ, mới hơn 5 giờ chiều mà đèn pháo sáng đã bừng lên soi rõ bóng cây. Dây thiếc chúng rải chống nhiễu bay rợp trời, rơi xuống vương trên nón cài lá ngụy trang của chị. Chị đi, vẫn vành khăn tang trắng thả xuống đôi vai gầy. Em tiễn chị ra bến đò Cố Xin, lo cho chị đi bộ về đến Nghi Lộc chắc sáng đêm.

Một ngày cuối tháng 10 năm sau, gia đình em đang chìm trong tang tóc thì bất ngờ chị về. Chưa kịp đặt cái bị lác xuống bàn, chị đã reo lên: “Con mới nhận được thư anh Thanh. Đây này!” Chị bẽn lẽn chìa lá thư nhàu nát nhòe mực tím ra. Ngày viết là 15 tháng 9 năm 1971, sau ngày báo tử đến mấy tháng. Như vậy là anh vẫn sống. Báo tử nhầm rồi. Cả nhà em reo lên: “Nhầm, nhầm…” Mẹ em lại khóc nức nở như hồi trước nhưng vì vui quá. Cũng chỉ hai ba ngày sau nhà em cũng nhận được thư anh. Thư anh viết là anh vẫn khỏe, công tác tốt. Chẳng nhắc gì đến chuyện chiến tranh ác liệt nguy hiểm cả.

Lần này chị chỉ ở được 2 ngày rồi lại ra đi. Mẹ em thương chị và thực sự coi chị Cúc như con. Chuyện to nhỏ, xa gần mẹ em đều rỉ rả với chị. Mãi đến sau ngày toàn thắng, tháng 4 năm1975, đất nước hòa bình, cả nhà em mỏi mòn chờ đợi tin tức anh Thanh suốt mấy năm vẫn không có. Chị Cúc về vài lần nhưng rồi lại buồn bã, thất vọng ra đi. Cho đến ngày nhà em nhận được giấy báo tử của anh. Em nhờ gọi điện thoại ra trường chị báo cho chị biết. Hôm sau chị về ngay với tấm khăn trắng trên đầu. Chị khóc nức nở, mẹ em phải đỡ chị khỏi ngất đi. Chị xin mặc áo xô rồi thắp hương cho anh. Chị khóc suốt, không ai khuyên được chị. Một tuần sau chị xin phép ra đi. Mẹ em ôm lấy chị: “Con ơi, lần này không nhầm nữa rồi. Thanh đã mất thật rồi! Mẹ xin con, con không còn trẻ nữa, con đã chờ 10 năm, gần 30 tuổi rồi, con phải lấy chồng thôi. Thanh biết vậy cũng mừng cho con, con đừng lo quá cho mẹ và các em, con nhé.” “Không! Nhất định nhầm mẹ ạ. Con không tin, con chờ anh!“, chị nức nở đội nón ra đi trong buổi chiều mùa hè đang vần vũ cơn giông. Từ đó hàng năm, đến 30 tháng 4, ngày giỗ anh Thanh là chị lại về. Năm 1991, bố em mất chị cũng về thắp hương, cúng 3 ngày xong mới đi. Năm 1995, mẹ em qua đời, và những ngày vui của gia đình như chị Ninh lấy chồng, em lấy vợ đều có mặt chị.

Minh hoạ: Hải Thọ

*

Với những thông tin rời rạc chắp nối trong những lá thư Thanh gửi về cho Cúc, tôi lần mò hỏi thăm qua các đơn vị quân đội và các sở Lao động Thương binh và Xã hội nhiều tỉnh thành, dần biết được Thanh đã hy sinh trên đường tiến công giải phóng Sài Gòn đúng ngày 30/4/1975, lúc 9 giờ 30 phút. Tôi vào huyện Hóc Môn, tìm được mộ Thanh được chôn cất ở nghĩa trang huyện. Tôi gọi điện về cho em Quý, cho chính quyền xã Nam Cường, huyện Nam Đàn hẹn ngày đưa Thanh về quê. Rồi tiện đường tôi đi công tác sang Campuchia. Tháng sau, về nước, tôi khẩn trương về quê để bàn chuyện của Thanh thì hết sức bất ngờ và ngạc nhiên là Thanh đã được đưa về nghĩa trang liệt sỹ xã. Thật mừng nhưng cũng không biết ai đưa về nên sang nhà em Ninh hỏi thì mới rõ ngọn ngành.

Cháu Cường, con trai cả của em Ninh, gọi Thanh là cậu, dẫn tôi sang nghĩa trang, hào hứng kể:

– Có địa chỉ bác để lại về địa phương có mộ cậu Thanh, có điện thoại chú Trưởng phòng Lao động Thương binh và xã hội huyện Hóc Môn… chính quyền huyện Nam Đàn đã gửi công văn và gọi điện thoại liên lạc với trong đó… Mùa mưa lụt sắp đến. Bác thì đi vắng, cả nhà nóng ruột quá. Chờ chính quyền chẳng biết lúc nào nên gia đình cháu quyết định cho cháu vào xin đón cậu về. Cậu Quý gọi điện cho cô Cúc. Hôm sau cô vào ngay, khóc tấm tức, đòi đi theo, mọi người khuyên cô không nên đi, sợ cô có tuổi rồi đi đường xa vất vả. Cô đưa cho cháu mấy trăm nghìn “làm lộ phí đi đường”.

– Cháu có vào Phòng Lao động Thương binh và Xã hội xin phép không?

– Có chứ. Cháu gặp cơ quan, trình chứng minh thư của cháu và Giấy báo tử cậu Thanh. Họ cũng nói là đã nhận được công văn của Nam Đàn nhưng bận chuẩn bị kỷ niệm Quốc khánh 2/9 nên chưa trả lời kịp. Cháu đành trở về nhà trọ chờ đợi. Hằng ngày cháu vẫn vào nghĩa trang hương khói cho cậu. Mấy hôm sau cháu lại đến lần nữa nhưng chẳng giải quyết được gì. Sốt ruột quá! Trời mưa rả rích mấy hôm rồi. Cháu không còn tiền ăn và tiền trả nhà trọ nữa. Quần áo cháu đi xa cũng đã bẩn, bốc mùi. Cháu đành quyết định, đêm chờ khi lính gác cổng ngủ, đèn đường phố tắt, cháu trèo hàng rào vào nghĩa trang. Ban ngày cháu đã nhận ra gốc cây mẫu đơn làm chuẩn. Cháu mang theo búa và con dao rựa mượn nhà trọ. Trời mưa mấy hôm rồi, đất mềm ra. Cháu đập mộ, dùng dao rựa bới đất bốc hằn cả tiểu sành đựng hài cốt của cậu ra, bỏ vào ba lô mang theo rồi chui qua hàng rào “chuồn” thẳng về nhà trọ. Sáng tinh mơ chưa ai thức cháu đã gọi xe ôm chạy thẳng ra bến xe đò. Đến bến xe, cháu kịp gọi điện thoại đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Hóc Môn thông báo là cháu đã bốc mộ cậu Thanh đưa về quê, kịp tránh mùa mưa lụt đến. Đằng kia có giọng phụ nữ trả lời: “Thế là sai nhưng cũng thông cảm với người nhà liệt sỹ. Anh đang ở đâu chúng tôi cho xe đón anh ra ga tàu hỏa hay sân bay?” Cháu đang sợ mình làm thế này có gì sai sai nên đành chối, cháu tắt máy và chuồn. Bây giờ mới thấy lo. Cái ba lô bé không đủ che hết cái tiểu sành có hài cốt cậu, xe khách thường kiêng mang hài cốt chắc chắn đuổi xuống dọc đường khi họ phát hiện ra. Cháu đành lấy quần áo bẩn của cháu bọc kín các góc tiểu lại rồi nhân lúc mới sáng trời, bỏ ba lô khỏi vai, bê vào gửi dưới thùng chở hàng. Xe đường dài về Vinh nhưng không đông người, chạy ra khỏi thành phố mới bán vé. Lơ xe vừa thu tiền vừa xé vé cho khách. Đến lượt cháu mới ngẩn người ra là cháu không còn đủ tiền mua vé nữa mới chết chứ. Cháu nói dối là vừa bị mất cắp, xin các chú. Không được, vừa khóc vừa xin. Chú lơ xe dứt khoát đuổi xuống. Biết làm sao được, bác tài dừng xe, khách trên xe ái ngại nhìn cháu vì trời đang mưa. Mưa to dần, chú lơ chui cả người vào gầm xe kéo cái ba lô ra miệng lầm bầm “Hàng cấm à, gì mà nặng thế?” Phản xạ tự nhiên, cháu bật ra miệng: “Hài cốt cậu em đấy. Cậu em là bộ đội hy sinh trong này, em vào bốc cậu về quê.” “Mày nói cái gì. Bốc mộ liệt sỹ à? Ngu thế sao không bảo, không mang lên xe.” “Em sợ nhà xe kiêng không dám mang ba lô lên xe”, “Mang lên đi. Hài cốt liệt sỹ kiêng cái gì.”

Rồi anh lơ xe kéo ba lô ra, bê một đầu cùng cháu đưa lên xe. Khách đi xe đứng cả dậy nhường lối. Khách ngồi dãy ghế cuối xe giãn ra, chuyển chỗ để trống đặt ba lô vào. Xe lại tiếp tục chạy. Dọc đường xe nghỉ, cháu được bà con cho ăn uống cùng. Về đến Nam Cường thì đã thấy bà con làng xóm, gia đình, cô Cúc và cán bộ xã, huyện với cờ, băng rôn và hương hoa chờ đón sẵn, đưa cậu về nghĩa trang Liệt sỹ xã nhà. Ông chủ tịch xã hồ hởi: “Trong kia vừa gọi điện ra thông báo là người nhà liệt sỹ đã bốc và đưa hài cốt liệt sỹ về quê. Họ còn nhắc nhở chúng tôi tổ chức đón chu đáo.”

Tôi nghe vừa bực thằng cháu vừa vui. Tôi vội vàng vào nghĩa trang thắp hương cho bạn bè nằm ở đây và quỳ xuống bên ngôi mộ mới xây có ghi tên Nguyễn Văn Thanh sinh 1949, nhập ngũ năm 1968, hy sinh ngày 30/4/1975. Nén hương trầm vừa đốt lên, nghi ngút khói bay phảng phất thơm dìu dịu, tỏa ra nền trời quê hương.

Truyện ký của Lê Thị Hạnh Liên