KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH CỦA NHÀ VĂN ĐOÀN GIỎI (17/5/1925 – 17/5/2025)
Trong thế kỷ XX, Đoàn Giỏi là một trong những cây bút tiêu biểu của dòng văn học Nam Bộ, bên cạnh các tên tuổi như Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức và Sơn Nam. Ông góp phần khẳng định bản sắc văn hóa miền Nam với những trang văn đậm chất trữ tình và hiện thực, phản ánh sâu sắc mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi (17/5/1925 – 17/5/2025), Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản bộ ấn phẩm của nhà văn Đoàn Giỏi. Bộ sách tập hợp 8 tác phẩm đặc sắc nhất của nhà văn Đoàn Giỏi, người đã mang đến cho bạn đọc nhiều thế hệ những trang viết đậm đà, sống động và giàu tính nhân văn.

Đoàn Giỏi – Người thư ký của văn hóa miệt vườn Nam Bộ
Nhà văn Đoàn Giỏi (17/5/1925 – 2/4/1989), tên thật là Đoàn Văn Hòa, sinh ra tại xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình địa chủ giàu có ven sông Tiền. Với các bút danh như Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học thiếu nhi. Xuất thân từ vùng đất Nam Bộ trù phú, Đoàn Giỏi sớm bộc lộ tình yêu văn chương và hội họa, từng theo học tại Trường Mỹ thuật Gia Định, nhưng cuộc đời ông gắn bó với con đường cách mạng kháng chiến và sáng tác văn học.
Năm 1945, ông gia nhập Việt Minh, hoạt động tại chiến khu Đồng Tháp Mười. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946–1954, Đoàn Giỏi công tác tại Hội Văn nghệ Nam Bộ, viết báo, kịch và truyện ngắn phục vụ kháng chiến.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam, nơi ông tập trung sáng tác các tác phẩm phản ánh con người, thiên nhiên và cuộc kháng chiến của Nam Bộ. Sau năm 1975, ông trở về Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục sáng tác và góp phần đào tạo các nhà văn trẻ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông qua đời năm 1989, để lại một di sản văn học phong phú và được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
Sự nghiệp văn chương của Đoàn Giỏi trải dài hơn bốn thập kỷ, với các thể loại đa dạng: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, bút ký, thơ, kịch thơ và biên khảo… Tác phẩm của ông thấm đượm hơi thở Nam Bộ, nơi thiên nhiên hoang sơ hòa quyện với con người chất phác, kiên cường. Nhà văn Anh Đức nhận xét: “Văn của nhà văn Đoàn Giỏi vừa mang chất trữ tình lại vừa mang tính chất lạ kỳ, sôi động.” Nhà thơ Chế Lan Viên cũng nhấn mạnh: “Văn của Đoàn Giỏi luôn ngồn ngộn nguồn tư liệu và vốn sống mà tác giả chắt lọc.” Những nhận định này khẳng định tài năng và sự tận tụy của ông trong việc tái hiện linh hồn văn hóa, lịch sử của vùng đất phương Nam.
Đoàn Giỏi sáng tác đa dạng, nhưng nổi bật nhất là các tác phẩm viết về Nam Bộ, đặc biệt là tiểu thuyết Đất rừng phương Nam (1957), được xem là một tác phẩm hàng đầu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu khác như: Viết cho thiếu nhi: Cá bống mú, Hoa hướng dương, Cuộc truy tìm kho vũ khí, Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày, Tê giác trong ngàn xanh, Rừng đêm xào xạc, Những chuyện lạ về cá, Trần Văn Ơn… Bút ký và truyện ký: Ngọn tầm vông, Cây đước Cà Mau, Tiếng gọi ngàn... Thơ và kịch thơ: Giữ vững niềm tin, Bến nước mười hai, Người Nam thà chết không hàng… Ký sự lịch sử: Khí hùng đất nước, Những dòng chữ máu Nam Kỳ…
Tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần, dịch ra nhiều thứ tiếng như Nga, Hungary, Trung Quốc, Đức, Cuba… và chuyển thể thành cả phim truyền hình và bản điện ảnh như Đất rừng phương Nam. Nhà xuất bản Kim Đồng đã nhiều lần tái bản 8 tác phẩm tiêu biểu của ông, khẳng định giá trị trường tồn của di sản văn học này.

Bút pháp hiện thực pha trộn cảm hứng huyền thoại dân gian trong việc tái tạo không gian văn hóa, thiên nhiên Nam Bộ
Đoàn Giỏi là một trong những gương mặt văn chương đặc sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt nổi bật với những tác phẩm gắn liền với miền đất và con người phương Nam. Văn chương của ông là sự giao thoa giữa chất sử thi của những cuộc kháng chiến, đấu tranh và chất trữ tình trong cảm quan thiên nhiên, văn hóa, con người Nam Bộ. Trong lịch sử văn học Việt Nam, ông còn là một trong những cây bút có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học thiếu nhi, với đỉnh cao là tác phẩm Đất rừng phương Nam, từng được giới phê bình đánh giá là “thiên anh hùng ca tuổi thơ Nam Bộ”.
Chính trải nghiệm sống, chiến đấu và tiếp xúc với văn hóa dân gian Nam Bộ đã hình thành nên phong cách văn chương đặc sắc của ông.
Đoàn Giỏi có khả năng sử dụng bút pháp hiện thực truyền thống, kết hợp với cảm hứng huyền thoại dân gian, để tạo nên một không gian vừa xác thực, vừa có chiều sâu biểu tượng. Trong Đất rừng phương Nam, ông miêu tả cánh rừng U Minh như một sinh thể vừa gần gũi vừa bí ẩn, nơi “chim chóc kêu inh ỏi như hội chợ”, nơi “cá quẫy như muốn bay khỏi mặt nước”, vừa là không gian sinh tồn, vừa là biểu tượng của tự do và kháng chiến. Có thể nói, Đoàn Giỏi là người đầu tiên tạo dựng một hệ thống biểu tượng thiên nhiên, văn hóa Nam Bộ thành một thế giới nghệ thuật độc lập trong văn học Việt Nam.
Nhà nghiên cứu văn học người Nga Mikhail Bakhtin từng nhấn mạnh vai trò của không gian – thời gian (chronotope) trong việc kiến tạo tính lịch sử và tính hình tượng trong tiểu thuyết. Theo Bakhtin, “thời gian được hóa thân và khả kiến trong không gian, và không gian trở nên ý nghĩa thông qua dòng thời gian” (Bakhtin, M. 1981. The Dialogic Imagination: Four Essays – Trí tưởng tượng đối thoại: 4 bài luận. Tr. Caryl Emerson and Michael Holquist. Austin: University of Texas Press – Đại học Texas xuất bản). Đất rừng phương Nam là một minh chứng điển hình. Câu chuyện trưởng thành của cậu bé An đan xen trong nhịp chuyển động của lịch sử Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nơi không gian rừng – sông – chợ nổi trở thành nơi thử thách, giáo dục và khơi dậy lý tưởng cách mạng.
Văn chương của Đoàn Giỏi thể hiện diễn ngôn trưởng thành: Từ con người tuổi thơ đến con người công dân. Khác với nhiều tác phẩm văn học thiếu nhi mang tính hư cấu hoàn toàn, tác phẩm của nhà văn thường đặt trẻ em vào bối cảnh xã hội cụ thể như kháng chiến, đói nghèo, xâm lược.., nhưng luôn để lại những “cửa sổ mở ra phía chân trời”, đúng như quan niệm của nhà tâm lý học trẻ em Bruno Bettelheim người Mỹ gốc Áo: “Trẻ em cần được tiếp xúc với cái ác để hiểu điều thiện và cần những câu chuyện có hậu để nuôi dưỡng hy vọng” (Bettelheim, B. 1976. The Uses of Enchantment: The Meaning and Importance of Fairy Tales – Phép màu của truyện cổ tích: Ý nghĩa và tầm quan trọng của truyện cổ đối với tâm lý trẻ em. New York: Knopf).

Văn chương Đoàn Giỏi như tấm bản đồ di sản mở
Trong các tác phẩm như Trần Văn Ơn, Rừng đêm xào xạc, Cuộc truy tìm kho vũ khí…, Đoàn Giỏi thể hiện một cách nhìn đặc biệt về lịch sử: không hoành tráng mà trầm lặng, không giáo điều mà cảm động. Ông kể chuyện những con người bình dị…, nhưng lại chất chứa tầm vóc sử thi từ chiều sâu của lòng yêu nước.
Lối kể chuyện mang âm hưởng tự sự dân gian giúp ông giữ được giọng điệu gần gũi mà vẫn đầy suy tư. Đây chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đại tự sự (grand narrative) của thời đại và tự sự nhỏ (petit récit) của đời thường – một yếu tố mà các nhà hậu hiện đại như Jean-François Lyotard cho là cần thiết để “phân quyền hóa” diễn ngôn lịch sử. (Lyotard, J.-F. 1984. The Postmodern Condition: A Report on Knowledge – Hoàn cảnh hậu hiện đại – Một báo cáo về tri thức. Tr. Geoff Bennington and Brian Massumi. Minneapolis: University of Minnesota Press).
Nét đặc sắc khác trong văn chương Đoàn Giỏi chính là nhãn quan sử thi văn học áp dụng lên địa lí và lịch sử vùng đất Nam Bộ. Ông không kể chuyện theo lối trần thuật hình thức, mà dịch chuyển những kinh nghiệm của cá nhân thành những câu chuyện kể về một vùng đất và những con người nơi ấy.
Không chỉ là nhà văn của thời chiến, Đoàn Giỏi còn là một người kể chuyện lớn của miền đất, một kiểu “homo narrans” theo cách gọi của nhà triết học văn hóa người Đức gốc Do Thái Walter Benjamin. “Homo narrans” theo tinh thần của Walter Benjamin cho rằng con người kể chuyện là hiện thân của tri thức sống động, là hình thức trao truyền kinh nghiệm sống, chứ không chỉ là thông tin hay dữ liệu đơn thuần. Người kể chuyện truyền lại trí tuệ tập thể, lối sống, đạo đức, ẩn dụ của cộng đồng, khác hẳn với người ghi chép lịch sử hiện đại vốn thiên về sự kiện, sự thật trần trụi. Những “homo narrans” đối lập với xã hội hiện đại ngày càng bị “cơ giới hóa” về mặt cảm xúc. Khi khả năng kể chuyện mai một, kinh nghiệm sống không còn được chia sẻ, con người cũng mất đi sự gắn kết sâu xa với nhau. Văn chương của Đoàn Giỏi vì thế có giá trị như là di sản tinh thần và nguồn cảm hứng cho những thế hệ sau. Ông khơi dậy trí tưởng tượng không gian trong tâm thức người Việt, đặc biệt là trẻ em, về một miền Nam trù phú, dữ dội và ân tình. Với thế hệ trẻ hiện nay, giữa những lo âu hiện sinh và đứt gãy ký ức, những tác phẩm của ông vẫn vang vọng như một “địa tầng ký ức”, nơi lưu giữ bản sắc vùng đất và khơi nguồn bản lĩnh dân tộc.
Di sản văn học của Đoàn Giỏi không nằm ở số lượng tác phẩm, mà ở chất lượng thế giới mà ông tạo dựng: một thế giới vừa mang bản sắc văn hóa vùng miền, vừa mang tính phổ quát nhân loại. Ông là nhà văn của tuổi thơ, của lịch sử sống động, của thiên nhiên giàu xúc cảm và của một tinh thần nhân văn lớn lao.
Gió rừng U Minh vẫn thổi và những trang văn vẫn còn thơm mùi đất
Nghệ thuật văn chương của Đoàn Giỏi mang đậm chất Nam Bộ, kết hợp giữa trữ tình và hiện thực. Ông sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giàu hình ảnh, gần gũi với đời sống người dân miền sông nước. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng từng chia sẻ trên báo Ấp Bắc: “Trong quá trình sáng tác Đất rừng phương Nam, tôi có cảm giác anh Đoàn Giỏi đánh vật với từng chữ”. Sự tỉ mỉ này tạo nên những trang văn sống động, như trong đoạn miêu tả cảnh chợ nổi: “Tiếng chèo khua nước rổn rảng, tiếng người mua kẻ bán rộn ràng như một bản nhạc của sông nước” (trích Đất rừng phương Nam).
Đoàn Giỏi còn khéo léo sử dụng lối kể chuyện tự nhiên, đan xen giữa thực tế và huyền thoại, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho văn học thiếu nhi. Theo lý thuyết tự sự học (narratology) của Gérard Genette, ông kết hợp giọng kể của người lớn và góc nhìn của trẻ thơ, giúp Đất rừng phương Nam vừa sâu sắc với người lớn, vừa cuốn hút với thiếu nhi. Ông cũng vận dụng phong cách “đơn đặt hàng” một cách sáng tạo, vượt qua định kiến rằng văn học thiếu nhi bị gò bó. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng nhận xét: “Đoàn Giỏi hoàn toàn tự do với đơn đặt hàng và trở thành một trong những tên tuổi viết cho thiếu nhi hay nhất Việt Nam.”

Tác phẩm của Đoàn Giỏi tập trung khắc họa thiên nhiên và con người Nam Bộ, nơi ông sinh ra và lớn lên. Theo lý thuyết sinh thái học văn học (ecocriticism) của Cheryll Glotfelty, văn học cần được xem xét qua mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Trong Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi tái hiện một Nam Bộ trù phú với “rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông, con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn” (trích Đất rừng phương Nam). Thiên nhiên không chỉ là bối cảnh mà còn là nhân vật, tham gia vào hành trình trưởng thành của cậu bé An, nhân vật chính. An bị lưu lạc trong chiến tranh, được người dân Nam Bộ cưu mang, từ đó khám phá vẻ đẹp của đất trời và lòng nhân hậu của con người.
Nội dung tác phẩm của Đoàn Giỏi còn phản ánh tinh thần kháng chiến và ý chí kiên cường của nhân dân Nam Bộ. Trong Cá bống mú, ông khắc họa sức sống mãnh liệt của các dân tộc miền Nam trong cuộc đấu tranh sinh tồn: “Con cá bống mú, dù nhỏ bé, vẫn kiên cường vượt qua dòng nước xiết”. Qua các tác phẩm, Đoàn Giỏi xây dựng hình ảnh con người Nam Bộ trung hậu, trí dũng, luôn gắn bó với quê hương và kháng chiến.
Theo nhà nghiên cứu văn học Phong Lê, giá trị của Đoàn Giỏi nằm ở khả năng “bồi đắp chất lượng trí tuệ và cảm xúc” qua các tác phẩm gắn bó với đất nước và con người.
Trong văn học thiếu nhi, Đoàn Giỏi chiếm vị trí đặc biệt với Đất rừng phương Nam, một tác phẩm kinh điển không chỉ ở Việt Nam mà còn được yêu thích trên thế giới. Tác phẩm này, cùng với các truyện như Cuộc truy tìm kho vũ khí và Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày…, đã mở ra một thế giới phong phú cho trẻ em, nơi thiên nhiên, lịch sử và lòng yêu nước hòa quyện. So với các nhà văn thiếu nhi khác như cùng thời như Tô Hoài hay thế hệ sau như Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Giỏi khác biệt ở khả năng kết hợp yếu tố lịch sử, văn hóa, thiên nhiên của địa phương và tinh thần kháng chiến, tạo nên những câu chuyện vừa giáo dục vừa hấp dẫn.
Di sản của Đoàn Giỏi còn thể hiện ở nỗ lực đào tạo thế hệ nhà văn trẻ và sưu tập tư liệu cho các tác phẩm lớn như Núi cả cây ngàn, dù chưa hoàn thành. Tên ông được đặt cho một con đường ở quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, và một trường học ở quê nhà Tiền Giang, khẳng định sự tôn vinh của hậu thế.
Nhân kỷ niệm 100 năm sinh của Đoàn Giỏi, việc nhìn lại di sản văn học của ông là cách để trân trọng một tài năng đã dành cả đời cống hiến cho văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học thiếu nhi. Vị trí của ông trong văn học Việt Nam là không thể thay thế, như một “cây đước Cà Mau” vững chãi giữa dòng chảy văn chương dân tộc.
Hà Thanh Vân














